Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 6 tháng 3, 2012

Tiếng Gọi


(MS The Van Le  có nhã ý post bài tự truyện của ông trong blog này như cuộc đồng hành hồi hương thiên quốc để trở nên một Little Jesus.  Mời bạn cùng đồng hành.)


by Pastor The Le Van
Mira Mesa Vietnamese Baptist Church Sandiego, CA 92105
thevanle1711@yahoo.com



1. Bóng người trên vách


Một tối Chúa Nhật mùa hè 1982, sau lần vượt biên cuối cùng bị thất bại; kẻ lường gạt là người bạn đồng nghiệp học cùng khóa với tôi. Anh ấy cùng vợ âm mưu lừa gạt để lấy vàng. Anh ta đã quay lưng lại với tình bạn và bán đứng chúng tôi “vừa ăn cướp vừa la làng,” làm điều ngược ngạo đe doạ tố cáo với chính quyền chúng tôi rủ rê vượt biển.

Trời vừa sáng, tôi đạp xe lần mò trên những con đường cát trắng quanh co và cuối cùng đã tìm được nhà của Cư. Cậu ta là học trò của “kẻ phản bội” đã cùng thầy mình sắp đặt kế hoạch, dùng vàng đã lấy cướp chia cho nhau. Cư đứng ra nhận là kẻ chủ mưu trong vụ cướp giựt này. Cậu ta dùng chiếc búa tạ to tướng trên tay đòi đập chết tôi tại chỗ. Trước tình thế căng thẳng, không còn cách nào hơn là thuyết phục cậu ấy bằng tình cảm. Tôi đã dùng những lời lẽ thật ôn tồn để giải thích với Cư biết số vàng đó từ đâu mà có. Luơng tâm bị đánh động, bỗng dưng Cư thả chiếc búa xuống và đổi giọng:

-Tôi xin lỗi anh, thật ra tôi không có chủ mưu cướp vàng của anh. Chuyện tổ chức vượt biên là có thật, nhưng vàng lại lọt vào tay vợ chồng Thầy Nhân. Chính họ là kẻ chủ mưu ăn cướp. Sáng nay ổng qua đây đưa cho tôi mấy chỉ vàng và bảo tôi nhận là kẻ cướp vàng của anh...

Hắn đùng đùng tức giận quay lưng lại chỉ vào mặt thầy của hắn:
-Thầy Nhân, tôi không thể làm điều bất nghĩa đó được, tôi sẽ bị quả báo. Thầy ra khỏi nhà tôi đi và tốt nhất,vợ chồng thầy đem trả số vàng đó cho Thầy Thể.

Nhân xấu hổ vì bị lột chiếc mặt nạ đạo đức giả nhân giả nghĩa, đứng trơ ra chưa biết phải làm gì. Tôi đã đoán trước điều này, nên rất bình tĩnh:

- Thôi anh Nhanh, sự thật đã rõ, nhưng tôi chẳng trách anh đâu. Anh chị nên đem trả số vàng lại cho chúng tôi coi như không có chuyện gì xả ra.

Nhanh đổi nét mặt tái mét và trở nên hung hãn:

- Đươc rồi! Tao sẽ có cách. Tao sẽ tố cáo bọn bay tổ chức vượt biên. Nói xong Nhanh đạp xe đi. Tôi thẫn thờ chẳng biết tính ra sao, bèn rủ Cư sang nhà tôi bên phố để hỏi thêm cho ra ngọn ngành.

Buồn bã trước nhân tình thế thái, đắng cay trước sự đời,đau khổ vì những ước mơ không còn thực hiện được nữa; chẳng biết những ngày còn lại sẽ về đâu. Tôi lang thang ngoài đường suốt ngày hôm ấy. Buổi tối, dừng chân bên quán sinh tố trước cổng nhà thờ Tin Lành 164 Ông Ich Khiêm Đà Nẵng. Uống chưa xong ly trái cây, bất chợt nhìn vào bên trong, tôi thấy vị thầy kính yêu của tôi thời trung học tay ôm quyển Kinh Thánh dưới mái hiên nhà thờ trông hiền lành và đạo mạo qúa! Như cái máy, tôi bước đến khẽ chào thầy.

- Thưa thầy, thầy khoẻ không?

Mắt thầy sáng lên trong đôi kính trắng:

- Thể phải không? Gặp lại em thầy mừng qúa!
Thầy nắm tay tôi dắt vào bên trong những hàng ghế. Câu chuyện hàn huyên ngắn ngủi giữa hai thầy trò tạm dừng lại vì chương trình truyền giảng Tin Lành đã bắt đầu. Đêm ấy thầy truyền đạo Nguyễn Xuân Sanh chia sẻ đề tài “Loài người gian ác.” Lời của Chúa nhanh chóng chạm mạnh vào lòng tôi ngay trong giờ phút ấy. Tôi cảm nhận được mình là một tội nhân trước mặt Thượng Đế. Tôi cảm thấy dường như một dòng điện chạy vào trong da thịt mình làm cho những tế bào rung lên trong sự choáng ngợp của tình yêu thiên thượng. Bây giờ tôi không còn phải bận tâm đến kẻ phản bội, mà tôi đang suy nghĩ đến linh hồn mình. Tôi chỉ mong rằng được Chúa tha tội và linh hồn được cứu khỏi thế giới xấu xa này. Tôi mạnh dạn rời chỗ ngồi, tiến lên phía trước cây thập tự và quì xuống để các vị mục sư cầu nguyện tiếp nhận Chúa Jêsus.
Ngay trong giờ phút thiêng liêng ấy một cảm giác nhẹ nhàng tràn ngập trong tâm hồn. Tôi hân hoan bước ra khỏi nhà thờ lòng tự nhủ: “Quả nơi đây có những khuôn mặt nhân từ đôn hậu, những con người đáng mến, những nụ cười rạng rỡ thân thương.” Tôi bách bộ giữa dòng người đông đúc. Phố xá của một đêm Chúa nhật vẫn rộn ràng hơn ngày thường; mặc dù giai đoạn này là những tháng năm cực kỳ khó khăn của một đất nước sau nhiều biến đổi.

Tiếng còi xe inh ỏi hối thúc nhau, mùi cống rãnh xông lên ngột ngạt trong bóng đêm của những con đường cúp điện. Tiếng người bán vịt lộn khàn đục trong ngõ hẻm vang lên. Đằng xa, vài bác xích lô tranh nhau giành khách. Tiếng ho của một cụ già bên vỉa phố làm cho tôi bừng tĩnh và nhớ ra rằng cả ngày hôm nay tôi chưa có một thứ gì trong bụng ngoài ly sinh tố còn dang dở. Bụng đói, người mệt nhoài, nhưng trong tôi như vừa được tiếp sức bởi một quyền năng vô hình. Bên trong và ngoài nhà thờ chỉ cách nhau một hàng rào sắt, thế mà hai cuộc sống và những con người hoàn toàn khác biệt.

Tôi về đến trước cổng nhà mình, nhìn vào bên trong đèn vẫn còn sáng và bóng người phụ nữ in trên vách. Lòng tôi tràn ngập niềm vui vì sắp kể cho nhà tôi nghe sự thay đổi trong đời; bởi tiếng gọi của một tình yêu vĩ đại.


2- Những khúc quanh nghiệt ngã
Cháu đầu được một tuổi thì cháu thứ hai lại ra đời. Vợ tôi nằm ở một nhà hộ sinh Phường. Từ sáng cho đến tận chiều vẫn chưa sinh được. Cơn đau vẫn cứ kéo dài. Tôi cảm thấy nhà tôi không còn đủ sức chịu đựng thêm nữa, nên sau khi cầu nguyện xong, tôi quyết định đưa nhà tôi lên bệnh viện Đa Khoa. Đây là bệnh viện lớn nhất của thành phố Đà Nẵng. Sau đó nhà tôi ở lại cùng bà ngoại, còn tôi hối hả chạy về nấu cơm mang lên cho vợ. Vừa bước đến hành lang, thì mẹ vợ của tôi reo mừng:

- Sinh rồi, con trai.

Sung sướng quá, tôi chạy vào bên trong cũng là lúc người ý tá bế đứa nhỏ đi dọc theo hành lang lên lầu. Tôi vội vã bám theo phía sau. Nhìn thằng bé kháu khỉnh, mủi cao, trán rộng, hai tai to lớn, đôi môi trái tim, lòng tôi rộn ràng một niềm vui khó tả!

Thế rồi, cô ý tá lặng lẽ bỏ thằng nhỏ vào chiếc lồng kính để thở ô-xy, tôi hồi hộp và lo sợ. Một cảm giác mênh mang nào đó xâm chiếm tâm hồn.
Một ý nghĩ rùng rợn chợt đến. Tôi nhắm mắt lại cố xua đi những điều đen tối ra khỏi đầu óc mình. Tôi vội quì xuống bên hành lang lâm râm cầu nguyện. Khoảng một giờ đồng hồ sau, người y tá bồng thằng nhỏ ra ngoài trao cho tôi, lắc đầu không nói gì. Tôi đưa tay đón lấy cháu, ôm sát vào lòng. Chút hơi ấm sau cùng còn lại thoi thóp trên đôi môi. Lặng lẽ, tôi bước xuống cầu thang, đôi chân tê cóng, lạnh lẽo. Một nỗi xót xa vô tận trào lên nghẹn cứng ở cổ và tôi đã khóc. Một nỗi đau đớn nhói buốt mà lần đầu tiên trong đời tôi cảm nhận được thế nào là tình phụ tử. Trong giờ phút cô đơn ấy, tôi cảm thấy Chúa ở đâu xa lắm. Dường như Ngài không ở bên tôi, và trong tôi có chút dỗi hờn. Lúc đó, đức tin tôi bị lung lay tự hỏi rằng sao Chúa để tôi trong hoàn cảnh nghịệt ngã này?
Sau này, khi trưởng thành trong Chúa, tôi mới hiểu ra rằng, người tín đồ Cơ-đốc không phải là không chịu những thử thách khổ đau, nhưng trong mọi hoàn cảnh phải biết cảm ơn Ngài. Chúa luôn cho con cái của Ngài những bài học để thử rèn, tôi luyện trong đức tin của mình.
“Ý tưởng ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối ta. Vì các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng bấy nhiêu.”  (Ê-sai 55:8,9)

Buổi chiều hôm sau, mấy anh em chúng tôi đi chôn cháu ở Gò-Cà bằng hai chiếc xe honda. Tôi đặt chiếc quan tài xuống đất, lòng đau như cắt.

Nắng chiều nghĩa địa gay gắt. Trong giờ phút tận cùng của đau thương và cô đơn ấy, tôi ngước mắt lên trời và thưa rằng: Chúa ôi! Sao Ngài đành để con trong nỗi thống khổ này?

Trời hôm ấy buồn bã lắm! Những đám mây đen sà xuống trên đỉnh núi. Chung quanh là mồ mã với những sắc màu nham nhở. Nơi đây là chốn yên nghỉ cuối cùng của một đời người. Nơi đây, kết thúc mọi nỗi buồn lo của những ngày sống tạm trên đất. Tôi không dám nhìn vào mắt Vỹ, đứa em trai duy nhất của mình vì tôi biết rằng nó cũng đang khóc như tôi. Còn Khanh, người em họ của tôi nhìn lên bầu trời vì lo sợ cơn mưa, nói bâng quơ để giấu đi giọt nước mắt. Trực, người em vợ cuí xuống không nói gì vì trong lòng nó cũng có nỗi đau chung.

Trong hoàn cảnh này, chúng tôi vẫn có cớ ngợi khen Đức Chúa Trời; vì Ngài đã cho vợ tôi còn sống. Nếu tôi không được thúc giục đưa nhà tôi đến bệnh viện Đa khoa kịp thời, chắc hai mẹ con cũng đã qua đời vì kiệt sức.

Kinh nghiệm này như là bài học đau thương làm tim tôi nhói lên mỗi lần nhớ đến vì mặc cảm nghèo khổ và dại khờ. Thuở đó, vợ chồng chúng tôi qúa nghèo khó nên không dám đến bệnh viện Te-re-sa như đứa con đầu. Ngoài ra, còn một mặc cảm đáng thương khác, là vì mắc cở sinh hai năm hai đứa!
Mỗi ngày một bận, tôi phải giả vờ lên bệnh viện thăm con vì chưa thể nói sự thật cho nhà tôi biết là con mình đã qua đời. Đêm tối, trời cứ mưa rả rích bên ngoài, quần xăn tới gối, tôi lò mò trong bếp để nấu cơm. Tôi khe khẽ lấy những than lửa hồng bỏ vào cái trách để dành cho vợ nằm đỡ rét. Muà đông năm ấy thật là kinh khủng, nhưng chúng tôi không thể nào có đủ tiền để mua một bao than. Mỗi lần xúc gạo, tôi phải thật khẽ tay vì sợ rằng tiếng lon chạm vào đáy thùng, vợ tôi sẽ lo buồn vì biết rằng nhà mình hết gạo. Những quyển sách trên kệ đã thưa dần vì đã mang ra chợ trời cân ký; để đổi lấy vài con cá chiên cho vợ ăn thêm trong lúc sinh đẻ. Còn tôi, mắm rau mỗi ngày sơ sài qua bữa. Mỗi sáng, tôi áo ước có được một nửa chén cơm nguội của ngày hôm trước để bớt đi sự cồn cào khi đạp xe đến trường giảng dạy. Mới tin Chúa, tôi e ngại không dám bày tỏ hoàn cảnh của mình với ai để cầu thay. Vì vậy, tôi cố giấu nỗi đau trong lòng và cố sống bình thường để làm vui vợ mình. Vả lại, tôi cũng chẳng muốn ai biết mình khổ sở làm gì. Đêm đến, tôi lẻn ra ngoài đạp xe thồ kiếm thêm chút tiền cỏn con để mua thêm thức ăn cho vợ.

Bao nhiêu nỗi mệt nhọc và đắng cay của cuộc sống, tôi đành chấp nhận tất cả và tin tưởng ở một ngày mai. Lòng tôi luôn trông đợi từ trên cao; chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ nhìn xuống và Ngài sẽ rủ lòng thương.
“Sự chơn thật nứt mộng từ dưới đất; sự công bình từ trên trời ngó xuống.” (Thi Thiên 85: 11)


3. Đức Chúa Trời trả lời

Mùa Thu 1983, sau khi ngủ dậy chúng tôi sững sờ vì tất cả áo quần đồ đạc trong phòng đã mất sạch. Gia tài vỏn vẹn chỉ có chiếc radio sharp, một máy ảnh canon, một bàn ủi điện và một số vật dụng không đáng giá, nhưng tất cả không cánh mà bay. Đây là lần thứ hai chúng tôi bị ăn trộm. Buồn bực quá, tôi như người điên đạp xe ngoài phố đến mấy nơi bán chợ trời để mong tìm lại được mấy món đồ đã mất. Suốt nửa ngày vô vọng, tôi đạp xe thất thểu trở về và hét to lên rằng:

- Thượng Đế ôi, thật có Ngài hay không? Con khốn khổ thế này mà sao Ngài cứ lặng thinh?

Hai ngày sau,Chúa đã trả lời thật có Ngài và Ngài đã nghe hết sự cay đắng của lòng tôi. Một điện báo của bưu điện đưa đến và tôi đã nhận được món quà từ Úc gửi về. Món quà bán ra trị giá tương đương với những gì đã mất. Thế là lòng tôi lại lắng xuống, đức tin được củng cố trở lại. Một người anh em trong Chúa hỏi tôi:

- Trong những thứ bị mất, em tiếc nhất cái gì?

- Thưa anh, cái radio em nghe tin tức mỗi ngày.
Anh ấy lên lầu lấy chiếc radio của anh và trao cho tôi:

- Hãy cầm lấy, anh cho em đấy. Và đây là số tiền 39 đồng, anh để dành cho những ai gặp trường hợp rủi ro như thế này, em hãy cầm lấy mà mua lại mấy bộ áo quần để mặc lên lớp.
- Dạ không, em không thể làm như vậy được, vì anh cũng cần nghe tin tức như em.
- Đừng từ chối số tiền, anh biết em đang cần đấy.

Tôi muốn khóc vì cảm động trước tấm lòng của một người anh trong Chúa. Đó chính là anh Lê Tự Cam bây giờ đang là Mục sư tại Portland, Oregon. Anh ấy đã san sẻ cho chúng tôi những nhu cầu khẩn thiết. Tấm lòng nhân hậu và yêu thương ấy đã đi với chúng tôi trong nhiều năm tháng. Chúng tôi học hỏi và noi gương anh trong sự tập tễnh hầu việc Chúa. Cảm tạ Chúa, tình yêu của anh đã sưởi ấm lòng chúng tôi là những đứa em còn non nớt trên đường tin kính. Ngày anh ấy rời bỏ quê hương ra đi sang Hoa Kỳ, cái hình ảnh không thể nào quên được. Hàng mấy trăm người vây quanh sân ga Đà Nẵng để tiễn đưa và dường như ai nấy mắt đỏ hoe. Tiếng còi tàu rúc lên, con tàu nặng nề rời bến bỏ lại đằng sau bao nhiêu ánh mắt nhìn theo. Âm thanh của những chiếc bánh sắt nghiến trên đường ray xình xịch. Trong đời tôi, có lẽ đây là một trong những lần tiễn đưa buồn bã nhất. Phượng nắm chặt tay tôi như cùng san sẻ nỗi xúc động. Anh ấy và gia đình rời Việt Nam đã lâu, nhưng có lẽ chỗ trống vắng của anh trong nhà thờ khó ai lấp kín được.

Tôi cảm tạ Chúa vì biết được có nhiều con cái Chúa khác, cũng âm thầm sống cho Ngài. Những tấm lòng đáng qúy ấy khó tìm thấy giữa thế giới đầy nhiễu nhương và biến động này. Thầy Nguyễn Châu Hóa, một vị thầy khả kính đã khuyên nhủ, gần gũi chúng tôi trong cảnh hàn vi. Trong những lúc mệt mỏi, ngã lòng có thầy bên cạnh. Tình yêu chân thành của thầy giúp cho chúng tôi có thêm nghị lực. Chị Lê thị Đào dịu dàng đầy cảm mến, chị Lê Thị Hạnh ngọt ngào, sâu lắng. Họ như những than lửa hồng truyền hơi ấm và san sẻ cho những đứa em trong cơn khốn khó.

“Chớ quên các việc lành và lòng bố thí, vì sự tế lễ dường ấy đẹp lòng Đức Chúa Trời.”
(Hêbơrơ 13: 16)


4. Chuyến đi Bảo Lộc (Thị trấn B’lao)

Tháng 3- 1984 tôi cầu nguyện xin Chúa cho tôi đi Bảo Lộc để tìm một công việc sinh sống. “Lạy Chúa, xin Ngài thương xót gia đình chúng con. Đã từ lâu con không có cơ hội đi xa vì hoàn cảnh con Chúa biết rõ. Con muốn đi vào B’lao thăm người bạn thân, và tìm kiếm một việc làm. Ở đây, con thất nghiệp buồn lắm Chúa ôi! Xin Ngài cho con một dấu hiệu rõ ràng nếu Ngài bằng lòng cho con đi. Con cảm ơn Ngài!”

Thế rồi, khoảng một tuần sau tôi nhận được thư của người bạn mà tôi dự định đi thăm. Đài và tôi đã sống cách xa nhau hơn tám năm. Hôm nay, đột ngột lại viết thư về cho tôi. Thật lạ lùng và thú vị! Tôi đọc đi, đọc lại nhiều lần cho Phượng nghe. Trong thư Đài bảo tôi vào thăm chơi và nghiên cứu công việc sinh sống. Cậu ta cho biết cuộc sống của cậu đã ổn định và muốn tôi vào để được sống gần nhau. Chúng tôi là đôi bạn thân thiết thuở còn trung học tại quê nhà, rồi tiếp tục cùng trọ chung nhà với nhau trong những năm tháng ở đại học Sài Gòn.

Vậy là tôi có dấu hiệu của Chúa bằng lòng cho đi, nhưng tiền để đi chưa có. Tôi lại tiếp tục cầu xin Chúa. Thật lạ lùng mấy hôm sau, bà ngoại của cháu đem lên cho số tiền vừa đủ mua vé xe đò. Từ Đà Nẵng đến Nha Trang đoạn đường dài khoảng 500 cây số. Rồi từ đó phải sang xe đi Bảo Lộc hãy còn xa lắm! Cho nên, tôi cầu xin Chúa cho tôi mua được cái vé tốt nhất, nghĩa là được ngồi cạnh tài xế hay ít ra những ghế ở băng đầu. Thế nhưng, cầm cái vé trên tay tôi tuyệt vọng vì đó là cái vé ngồi ở băng sau chót. Trên đường về nhà tôi tự nhủ: “Uả, sao mình đã cầu nguyện rồi mà Chúa lại cho cái vé hạt bét này?” Tôi buồn lắm, nhưng không dám nói với nhà tôi.

Sáng hôm sau, khi lên bến xe và bước lên chỗ ngồi của mình, tôi mới biết rằng chẳng có ai mua vé ở hàng ghế đó. Vì vậy tôi có quyền nằm xuống thoải mái, vắt chân tréo cẳng ngỗng và mỉm cười. Bây giờ, tôi mới khám phá được điều kỳ diệu, Đức Chúa Trời biết hết mọi sự. Ngài chăm lo từng việc nhỏ nhặt một cách chu đáo hơn những gì tôi mong đợi.

Đến Bảo Lộc trời đã tối, tôi không biết tìm điạ chỉ của bạn mình ở đâu. Trong thư bạn tôi dặn dò:
- Xuống xe xong, mày hỏi nhà Đài làm ở phòng giáo dục, có vợ tên là Vân bán mỹ phẩm ở chợ Bảo Lộc, người ta sẽ chỉ cho.

Thế nhưng, trời đã tối, phòng giáo dục đã đóng cửa, chợ cũng đã tan! Thời tiết cao nguyên lạnh lắm về đêm. Mưa rả rích làm cho bộ áo quần ẩm ướt. Bụng cồn cào vì đói. Người tôi mệt nhoài sau hai ngày đường vất vả. Thẫn thờ trong một lúc, tôi chẳng biết tính làm sao. Nhớ đến Chúa, tôi bèn nhắm mắt lại để cầu xin: “Lạy Chúa, xin Ngài chỉ đường cho con. Con thèm một bữa cơm tối, một giấc ngủ thật ngon.” Tôi lại tiếp tục bách bộ và rẽ vào một con đường đất đỏ khá rộng. Đến cuối đường, tôi dừng lại hỏi thăm một người đàn bà:

- Thưa bác, bác có biết nhà anh Đài làm ở phòng giáo dục, có vợ là cô Vân bán mỹ phẩm không ạ?
Ngay cái cổng cậu đứng đấy! Người đàn bà nhã nhặn trả lời. Bà gọi giúp:
- Cậu Đài ơi! Có ai hỏi thăm này. Bà nhìn tôi một lần nữa mìm cười phúc hậu. Tôi cảm ơn bà rồi bước vào cổng ngõ.

Đài luýnh quýnh chạy ra ôm lấy tôi, miệng bi bô:
- Cậu ôi, ướt hết rồi! Làm sao mày tìm ra nhà giỏi vậy?

Tôi thong thả kể cho Đài nghe về những điều lạ lùng mà Chúa đã ban cho. Hai chúng tôi gặp lại nhau sau trong niềm sung sướng. Đêm ấy, chúng tôi kể cho nhau nghe những biến cố xảy ra từ những ngày sau 1975 với bao nhiêu thay đổi. Chúng tôi ôn lại quá khứ, điểm lại trong số bạn bè đứa nào còn đứa nào mất, hay lưu lạc phương trời nào?

Thời tiết cao nguyên thật tuyệt. Cái lạnh dễ thương và chúng tôi ngủ lúc nào không biết.

Chơi với Đài khoảng mười ngày, tôi lại muốn trở về Đà Nẵng. Tôi cảm thấy vui mừng và biết ơn Chúa vì được gặp lại bạn mình sau những nhớ nhung và mong đợi. Còn công việc làm ăn thì không dễ dàng kiếm một việc thích hợp. Vả lại, cuộc sống anh em chúng tôi bây giờ đã đổi khác. Đứa nào cũng đã có cái tổ ấm của riêng mình. Dầu thương mến nhau nhưng xung quanh còn bao nhiêu bổn phận. Sự hồn nhiên, vô tư đã thuộc về quá khứ của những ngày cắp sách. Tôi không muốn làm nhọc bạn, nên quyết định trở về Đà Nẵng.

Chuyến xe sáng rời bến khi trời B’lao còn đầy sương. Đài và tôi ôm nhau thêm một lần nữa. Đài cho tôi chiếc áo lạnh da màu vàng. Tôi cho Đài cái mũ lưỡi trai để nhớ tưởng đến nhau. Xe chạy một quãng, Đài vẫn còn đứng đó nhìn theo.

Trên đường về, tôi mãi mê nhìn ngắm những đồi chè trải dài như con sông uốn khúc một màu xanh bất tận. Những người phụ nữ da sậm đen với cái gùi đằng sau lưng và đứa con nhỏ trước bụng. Cuộc đời của họ có lẽ là một tương lai mịt mùng vô vọng. Họ gùi củi gạo, mắm muối, dầu chè và cất giấu nỗi niềm riêng. Đôi mắt họ sâu hoắm có vẻ mệt mỏi; lê những bước chân nặng nề trên con đường bụi đỏ. Tôi thầm tạ ơn Chúa vì tôi đã bắt đầu có sự bình yên trong lòng và tin rằng Đức Giê-hô-va đang bước đi cùng mình. Tôi cũng thầm cầu nguyện cho những người phụ nữ đáng thương kia một ngày được gặp Chúa, để nhận được sự cứu rỗi và yêu thương. Những cái gùi trĩu nặng ấy Chúa sẽ gánh thay cho.

“Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng” (Mathiơ 11: 28-30)