Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2015

BẢN TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN LIÊN HIỆP QUỐC - Ngày 10 tháng 12 năm 1948

        PREAMBLE

Whereas recognition of the inherent dignity and of the equal and inalienable rights of all members of the human family is the foundation of freedom, justice and peace in the world,


Whereas disregard and contempt for human rights have resulted in barbarous acts which have outraged the conscience of mankind, and the advent of a world in which human beings shall enjoy freedom of speech and belief and freedom from fear and want has been proclaimed as the highest aspiration of the common people,

Whereas it is essential, if man is not to be compelled to have recourse, as a last resort, to rebellion against tyranny and oppression, that human rights should be protected by the rule of law,

Whereas it is essential to promote the development of friendly relations between nations,

Whereas the peoples of the United Nations have in the Charter reaffirmed their faith in fundamental human rights, in the dignity and worth of the human person and in the equal rights of men and women and have determined to promote social progress and better standards of life in larger freedom,

Whereas Member States have pledged themselves to achieve, in co-operation with the United Nations, the promotion of universal respect for and observance of human rights and fundamental freedoms,

Whereas a common understanding of these rights and freedoms is of the greatest importance for the full realization of this pledge,

Now, Therefore THE GENERAL ASSEMBLY proclaims THIS UNIVERSAL DECLARATION OF HUMAN RIGHTS as a common standard of achievement for all peoples and all nations, to the end that every individual and every organ of society, keeping this Declaration constantly in mind, shall strive by teaching and education to promote respect for these rights and freedoms and by progressive measures, national and international, to secure their universal and effective recognition and observance, both among the peoples of Member States themselves and among the peoples of territories under their jurisdiction.
             LỜI MỞ ĐẦU

Xét vì việc được công nhận về nhân phẩm vốn sẵn có và về các quyền bình đẳng và bất khả phân của mọi thành viên gia đình nhân loại chính là nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình thế giới,

Xét vì việc xâm phạm và khinh thường nhân quyền đã dẫn đến những hành động man rợ xúc phạm lương tri nhân loại, và việc mở ra một thế giới, trong đó con người phải được vui hưởng tự do ngôn luận và tín ngưỡng và việc thoát khỏi sợ hãi và bần cùng, thế giới đó đã được công bố là khát vọng tuyệt đỉnh của đại chúng,


Xét vì thật thiết yếu để bảo vệ nhân quyền bằng luật lệ, nếu không con người bị buộc phải cầu viện, như biện pháp cuối cùng, để nổi dậy chống bạo quyền và áp bức,


Xét vì thật thiết yếu để thúc đẩy việc phát triển mối quan hệ bằng hữu giữa các nước,


Xét vì các dân tộc thuộc Liên Hiệp Quốc trong Hiến Chương đã tái xác quyết đức tin của họ nơi nhân quyền căn bản, nơi nhân phẩm và giá trị nhân thân và nơi quyền bình đẳng nam nữ, và họ đã cương quyết thúc đẩy tiến bộ xã hội và những tiêu chuẩn sống tốt hơn trong tự do rộng lớn hơn,

Xét vì các Nước Thành Viên đã tự cam kết để đạt tới, qua hợp tác với Liên Hiệp Quốc, việc đẩy mạnh toàn cầu tôn trọng và bảo vệ nhân quyền và những quyền tự do căn bản. 


Xét vì sự hiểu biết chung về những quyền hạn và những quyền tự do này là điều quan trọng lớn nhất cho việc thực hiện đầy đủ cam kết này,

Vì thế, nay ĐẠI HỘI ĐỒNG LIÊN HIỆP QUỐC tuyên bố TUYÊN NGÔN PHỔ QUÁT NHÂN QUYỀN NÀY là tiêu chuẩn chung để đạt tới cho mọi dân mọi nước, để đạt mục đích là mỗi cá nhân và mỗi tổ chức xã hội, ghi khắc Tuyên Ngôn này trong tâm trí, phải nỗ lực bằng cách dạy dỗ và giáo dục để thúc đẩy sự tôn trọng những quyền hạn và những quyền tự do này và bằng những biện pháp tiến bộ, quốc gia lẫn quốc tế, để bảo đảm việc được công nhận và việc giám sát một cách phổ quát hiệu quả của cá nhân và tổ chức đó, cả trong nhân dân các Nước Thành Viên lẫn trong nhân dân các lãnh thổ dưới quyền pháp lý của họ.

Article 1.

All human beings are born free and equal in dignity and rights. They are endowed with reason and conscience and should act towards one another in a spirit of brotherhood.

Article 2.

Everyone is entitled to all the rights and freedoms set forth in this Declaration, without distinction of any kind, such as race, colour, sex, language, religion, political or other opinion, national or social origin, property, birth or other status. Furthermore, no distinction shall be made on the basis of the political, jurisdictional or international status of the country or territory to which a person belongs, whether it be independent, trust, non-self-governing or under any other limitation of sovereignty.




Article 3.

Everyone has the right to life, liberty and security of person.

Article 4.

No one shall be held in slavery or servitude; slavery and the slave trade shall be prohibited in all their forms.

Article 5.

No one shall be subjected to torture or to cruel, inhuman or degrading treatment or punishment.


Article 6.

Everyone has the right to recognition everywhere as a person before the law.


Article 7.

All are equal before the law and are entitled without any discrimination to equal protection of the law. All are entitled to equal protection against any discrimination in violation of this Declaration and against any incitement to such discrimination.
  
Article 8.

Everyone has the right to an effective remedy by the competent national tribunals for acts violating the fundamental rights granted him by the constitution or by law.

Article 9.

No one shall be subjected to arbitrary arrest, detention or exile.

Article 10.

Everyone is entitled in full equality to a fair and public hearing by an independent and impartial tribunal, in the determination of his rights and obligations and of any criminal charge against him.

Article 11.

(1) Everyone charged with a penal offence has the right to be presumed innocent until proved guilty according to law in a public trial at which he has had all the guarantees necessary for his defence.


(2) No one shall be held guilty of any penal offence on account of any act or omission which did not constitute a penal offence, under national or international law, at the time when it was committed. Nor shall a heavier penalty be imposed than the one that was applicable at the time the penal offence was committed.

Article 12.

No one shall be subjected to arbitrary interference with his privacy, family, home or correspondence, nor to attacks upon his honour and reputation. Everyone has the right to the protection of the law against such interference or attacks.

Article 13.

(1) Everyone has the right to freedom of movement and residence within the borders of each state.

(2) Everyone has the right to leave any country, including his own, and to return to his country.


Article 14.

(1) Everyone has the right to seek and to enjoy in other countries asylum from persecution.


(2) This right may not be invoked in the case of prosecutions genuinely arising from non-political crimes or from acts contrary to the purposes and principles of the United Nations.


Article 15.

(1) Everyone has the right to a nationality.

(2) No one shall be arbitrarily deprived of his nationality nor denied the right to change his nationality.

Article 16.

(1) Men and women of full age, without any limitation due to race, nationality or religion, have the right to marry and to found a family. They are entitled to equal rights as to marriage, during marriage and at its dissolution.

(2) Marriage shall be entered into only with the free and full consent of the intending spouses.

(3) The family is the natural and fundamental group unit of society and is entitled to protection by society and the State.

Article 17.

(1) Everyone has the right to own property alone as well as in association with others.
  
(2) No one shall be arbitrarily deprived of his property.

Article 18.

Everyone has the right to freedom of thought, conscience and religion; this right includes freedom to change his religion or belief, and freedom, either alone or in community with others and in public or private, to manifest his religion or belief in teaching, practice, worship and observance.


Article 19.

Everyone has the right to freedom of opinion and expression; this right includes freedom to hold opinions without interference and to seek, receive and impart information and ideas through any media and regardless of frontiers.


Article 20.

(1) Everyone has the right to freedom of peaceful assembly and association.

(2) No one may be compelled to belong to an association.

Article 21.

(1) Everyone has the right to take part in the government of his country, directly or through freely chosen representatives.


(2) Everyone has the right of equal access to public service in his country.


(3) The will of the people shall be the basis of the authority of government; this will shall be expressed in periodic and genuine elections which shall be by universal and equal suffrage and shall be held by secret vote or by equivalent free voting procedures.

Article 22.

Everyone, as a member of society, has the right to social security and is entitled to realization, through national effort and international co-operation and in accordance with the organization and resources of each State, of the economic, social and cultural rights indispensable for his dignity and the free development of his personality.

Article 23.

(1) Everyone has the right to work, to free choice of employment, to just and favourable conditions of work and to protection against unemployment.


(2) Everyone, without any discrimination, has the right to equal pay for equal work.


(3) Everyone who works has the right to just and favourable remuneration ensuring for himself and his family an existence worthy of human dignity, and supplemented, if necessary, by other means of social protection.


(4) Everyone has the right to form and to join trade unions for the protection of his interests.


Article 24.

Everyone has the right to rest and leisure, including reasonable limitation of working hours and periodic holidays with pay.

Article 25.

(1) Everyone has the right to a standard of living adequate for the health and well-being of himself and of his family, including food, clothing, housing and medical care and necessary social services, and the right to security in the event of unemployment, sickness, disability, widowhood, old age or other lack of livelihood in circumstances beyond his control.

(2) Motherhood and childhood are entitled to special care and assistance. All children, whether born in or out of wedlock, shall enjoy the same social protection.

Article 26.

(1) Everyone has the right to education. Education shall be free, at least in the elementary and fundamental stages. Elementary education shall be compulsory. Technical and professional education shall be made generally available and higher education shall be equally accessible to all on the basis of merit.


(2) Education shall be directed to the full development of the human personality and to the strengthening of respect for human rights and fundamental freedoms. It shall promote understanding, tolerance and friendship among all nations, racial or religious groups, and shall further the activities of the United Nations for the maintenance of peace.

(3) Parents have a prior right to choose the kind of education that shall be given to their children.

Article 27.

(1) Everyone has the right freely to participate in the cultural life of the community, to enjoy the arts and to share in scientific advancement and its benefits.

(2) Everyone has the right to the protection of the moral and material interests resulting from any scientific, literary or artistic production of which he is the author.

Article 28.

Everyone is entitled to a social and international order in which the rights and freedoms set forth in this Declaration can be fully realized.



Article 29.

(1) Everyone has duties to the community in which alone the free and full development of his personality is possible.

(2) In the exercise of his rights and freedoms, everyone shall be subject only to such limitations as are determined by law solely for the purpose of securing due recognition and respect for the rights and freedoms of others and of meeting the just requirements of morality, public order and the general welfare in a democratic society.

(3) These rights and freedoms may in no case be exercised contrary to the purposes and principles of the United Nations.


Article 30.

Nothing in this Declaration may be interpreted as implying for any State, group or person any right to engage in any activity or to perform any act aimed at the destruction of any of the rights and freedoms set forth herein.

Ðiều 1:

Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền hạn. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm và phải đối xử với nhau trên tinh thần huynh đệ.

Ðiều 2:

Mọi người đều được hưởng tất cả những quyền hạn và tự do được công bố trong Bản Tuyên Ngôn này, không phân biệt nào về chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay các quan điểm khác, nguồn gốc quốc gia hoặc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những hoàn cảnh khác. Hơn nữa, cũng không được có sự phân biệt nào đối với con người sống trên một quốc gia hay trên một lãnh thổ, căn cứ trên cơ chế chính trị, nền tảng luật pháp hay quy chế quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ đó. Cho dù quốc gia hay lãnh thổ này độc lập hay dưới sự bảo hộ, không được tự trị hay ở trong tình trạng bị hạn chế về chủ quyền.

Ðiều 3:

Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.

Ðiều 4:

Không ai bị cưỡng bức làm nô lệ hay tôi đòi. Chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm.

Ðiều 5:

Không một người nào phải chịu cực hình, tra tấn, hay bất kỳ hình thức đối xử, hoặc trừng phạt bất nhân, hay có tính cách lăng nhục.

Ðiều 6:

Ở bất cứ nơi nào, mỗi người đều có quyền được công nhận tư cách con người của mình trước pháp luật.

Ðiều 7:

Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và phải được bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị phân biệt. Tất cả đều được quyền bảo vệ ngang nhau, chống lại mọi kỳ thị vi phạm Bản Tuyên Ngôn này, cũng như chống lại mọi kích động dẫn đến kỳ thị như vậy.

Ðiều 8:

Mọi người đều có quyền được bảo vệ và bênh vực bởi các cơ quan tư pháp quốc gia có thẩm quyền về các hành vi vi phạm các quyền căn bản, do Hiến Pháp và Luật Pháp quy định.

Ðiều 9:

Không một ai bị bắt bớ, cầm tù hay lưu đày một cách độc đoán.

Ðiều 10:

Mọi người đều được bình đẳng về việc phân xử công khai và công bằng, trước một tòa án độc lập và vô tư, để được phán quyết về các quyền lợi và nhiệm vụ của mình, hay về những tội phạm mà mình bị cáo buộc.

Ðiều 11:

(1) Khi truy tố trước pháp luật, mọi người được xem là vô tội, cho đến khi pháp luật chứng minh là có tội, trong một phiên tòa công khai và tòa án này phải cung ứng tất cả mọi bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ của đương sự.

(2) Không ai có thể bị kết án khi có những hành động hay sơ suất xảy ra vào lúc mà luật pháp của quốc gia hay quốc tế không qui định đó là một hành vi phạm pháp. Tương tự như vậy, không được áp đặt một hình phạt nào nặng hơn hình phạt được ấn định vào lúc hành vi phạm pháp xảy ra.


Ðiều 12:

Không một ai bị xâm phạm một cách độc đoán về đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, hay thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hay tiếng tăm của mình. Mọi người đều có quyền được luật pháp bảo vệ, trước những xâm phạm và xúc phạm như vậy.

Ðiều 13:

(1) Mọi người có quyền tự do di chuyển và cư trú, trong phạm vi biên giới của quốc gia.


(2) Mọi người đều có quyền rời khỏi lãnh thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước của mình, và quyền trở về xứ sở mình.

Ðiều 14:

(1) Trước sự ngược đãi, mọi người đều có quyền tị nạn và tìm sự dung thân tại các quốc gia khác.

(2) Quyền này không được kể đến, trong trường hợp bị truy nã thật sự vì các tội phạm không có tính chính trị, hay do những hành vi trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.

Ðiều 15:

(1) Mọi người đều có quyền có quốc tịch.

(2) Không một ai bị tước bỏ quốc tịch, hay bị từ chối quyền thay đổi quốc tịch, một cách độc đoán.

Ðiều 16:

(1) Nam và nữ trong tuổi trưởng thành có quyền kết hôn và lập gia đình, mà không bị hạn chế về lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam nữ đều có quyền bình đẳng lúc kết hôn, trong đời sống vợ chồng và lúc ly hôn.

(2) Hôn nhân chỉ có thể tiến hành khi cả hai đều được tự do quyết định và đồng ý thật sự.

(3) Gia đình phải được xem là một đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và được quyền bảo vệ của xã hội và quốc gia.

Ðiều 17:

(1) Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể.
  
(2) Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình một cách độc đoán.

Ðiều 18:

Mọi người đều có quyền về tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo. Quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng, cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình, với tư cách cá nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay nơi chốn riêng, bằng sự truyền dạy, thực hành, thờ phượng và áp dụng các nghi thức đạo giáo.

Ðiều 19:

Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do quan điểm mà không bị xen vào quấy rầy và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới.

Ðiều 20:

(1) Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội, một cách ôn hòa.

(2) Không một ai có thể bị cưỡng bách gia nhập vào một đoàn thể.

Ðiều 21:

(1) Mọi người đều có quyền tham gia vào việc điều hành xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua các đại biểu được tuyển chọn một cách tự do.

(2) Mọi người đều có quyền đón nhận những dịch vụ công cộng của quốc gia một cách bình đẳng.

(3) Ý muốn của người dân phải là nền tảng của quyền lực chính quyền. Ý muốn này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự, bằng phiếu kín, qua phương thức phổ thông và bình đẳng đầu phiếu, hay các phương thức tương đương của bầu cử tự do.

Ðiều 22:

Vì là thành viên của xã hội, mỗi người đều có quyền an ninh xã hội, qua các cố gắng của quốc gia và hợp tác quốc tế, dựa theo phương cách tổ chức và tài nguyên của mỗi nước. Quyền này được đặt trên căn bản của sự thụ hưởng những quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, cần thiết cho nhân phẩm và sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.

Ðiều 23:

(1) Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do chọn việc làm, quyền được hưởng các điều kiện làm việc chính đáng và thuận lợi đối với công việc, và quyền được bảo vệ chống thất nghiệp.

(2) Mọi người, không vì lý do kỳ thị nào, đều có quyền được hưởng lương bổng như nhau cho cùng một công việc.

(3) Mọi người làm việc đều được quyền hưởng thù lao một cách công bằng và thích hợp, khả dĩ bảo đảm cho bản thân và gia đình mình một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm, cũng như được trợ giúp nếu cần, qua các phương thức bảo vệ xã hội khác.

(4) Mọi người đều có quyền thành lập và tham gia vào các nghiệp đoàn, để bảo vệ quyền lợi của mình.

Ðiều 24:

Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải trí, kể cả việc hạn chế hợp lý số giờ làm việc, và các ngày nghỉ định kỳ có trả lương.

Ðiều 25:

(1) Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm cho bản thân và gia đình bao gồm: thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, quyền an sinh trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, góa bụa, tuổi già hay các tình huống thiếu thốn khác do các hoàn cảnh ngoài khả năng kiểm soát của mình.

(2) Các bà mẹ và trẻ con phải được hưởng sự chăm sóc và trợ giúp đặc biệt. Tất cả mọi trẻ con, sinh có hôn thú hay không, đều được xã hội bảo vệ một cách bình đẳng.

Ðiều 26:

(1) Mọi người đều có quyền được giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học và căn bản. Giáo dục tiểu học phải bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được mở rộng và giáo dục đại học phải được mở rộng bình đẳng cho mọi người, trên căn bản tài năng xứng đáng.


(2) Giáo dục phải được điều hướng để phát triển đầy đủ nhân cách, và củng cố sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản. Giáo dục phải nhằm cổ vũ sự cảm thông, lòng khoan dung, và tình hữu nghị giữa mọi quốc gia, mọi nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, và hỗ trợ việc phát triển các sinh hoạt của Liên Hiệp Quốc nhằm duy trì hòa bình.

(3) Cha mẹ có quyền ưu tiên chọn lựa phương cách giáo dục dành cho con cái mình.

Ðiều 27:

(1) Mọi người đều có quyền tự do tham gia sinh hoạt văn hóa cộng đồng, thưởng thức các bộ môn nghệ thuật, và cùng chia sẻ các tiến bộ khoa học cũng như các lợi ích của khoa học.

(2) Mọi người đều có quyền được bảo vệ về tác quyền, trên bình diện tinh thần cũng như quyền lợi vật chất, đối với các tác phẩm khoa học, văn chương, hay nghệ thuật.

Ðiều 28:

Mọi người đều có quyền đòi hỏi được sống trong một trật tự xã hội và trật tự quốc tế, trong đó các quyền và các tự do được đề cập trong Bản Tuyên Ngôn này có thể được thể hiện đầy đủ.

Ðiều 29:

(1) Mọi người đều có bổn phận đối với cộng đồng nào mà chỉ trong đó mới có thể phát triển toàn vẹn và tự do nhân cách của mình.

(2) Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định, và những hạn chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng nhân quyền, và quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về luân lý, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ.

(3) Trong bất cứ trường hợp nào, nhân quyền và những quyền tự do này cũng không được hành xử trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.

Ðiều 30:

Không một điều nào trong Bản Tuyên Ngôn này được hiểu và hàm ý cho phép một nước, một nhóm hay một cá nhân nào được quyền có những việc làm hay hành động nhằm hủy diệt nhân quyền và tự do được thừa nhận trong bản Tuyên Ngôn này.





Thứ Năm, 17 tháng 9, 2015

Khi Nào Người-Theo-Chúa Phải Bất Tuân Luật Pháp? Bài Học Từ Na-Uy


By Jerry Newcome – September 11, 2105
Dịch: Thang Chu


(Dr. Jerry Newcombe is a key archivist of the D. James Kennedy Legacy Library, a spokesman and cohost of Kennedy Classics)



Những biến cố mới đây đặt ra câu hỏi vấn đề tuân phục chính phủ trong mọi đường lối - thậm chí trong mọi hoàn cảnh.

Trong chương 13 sách Rô-ma, Phao-lô nói Đức  Chúa Trời đã ban cho chúng ta chính phủ làm người phục vụ của sự công chính.  Trách nhiệm chúng ta phải vâng phục chính phủ.  Nhưng chúng ta cũng thấy trong Kinh Thánh rằng trong trường hợp, khi chính phủ kêu gọi ta bất tuân Đức Chúa Trời, thì bất tuân dân sự phải sẵn sàng.

Bài học lớn học từ một khía cạnh của Thế Chiến II liên quan đến việc bóp méo Rô-ma 13.  Tôi không gọi ai là Đức-Quốc-Xã, nhưng xét bài học dài này, nơi Đức-Quốc-Xã trích Kinh Thánh để ra lệnh tuân phục vô điều kiện.

Ngày 9 tháng Tư năm 1940, không một lời cảnh cáo hoặc khiêu khích, quân Đức xâm chiếm Na-Uy.  Đó là trận đánh bất ngờ và cuộc chiến bất công với 400.000 quân Đức Wehrmacht đánh lại một quốc gia không đề phòng.  Ác mộng này kéo dài đến tháng Năm 1945.

Dĩ nhiên có những đồng lõa người Na-uy -- những người Na-uy bán linh hồn để làm lãnh đạo trong thời đô hộ của Đức-Quốc-Xã.  Đứng đầu đám họ là Vidkun Quisling.  Tên hắn được bỏ vào tự điển: chữ quisling nghĩa là kẻ phản bội.

Khi Đức-Quốc-Xã chiếm Na-Uy, cả nước đầy những “thuần chủng Aryans,” họ muốn dân Na-Uy tham gia vào nỗ lực họ để ca ngợi “chủng tộc bá chủ” và tẩy sạch chủng tộc “bất xứng” khỏi nhân loại, chẳng hạn Do Thái, Gypsies, và Slavs.

Dân Na-Uy không dính líu làm chuyện này.  Nên họ kháng cự, thường theo mọi cách ôn hòa mà họ có thể.  Rất nhiều cuộc chiến đó được chiến đấu qua việc phân phát thông tin xác thật.

Tại thủ đô Olso, có một viện bảo tàng (Norges Hjemmefront Museum) được dâng cho phong trào kháng cự trong Thế Chiến II đó.  Họ để tấm bảng tại đó tiếng Anh: “Tại Na-Uy, ý thức hệ Đức-Quốc-Xã bị đánh bại bởi những lực lượng dân chủ đâm rể vào văn hóa yêu nước Đạo Chúa.”

Trong lúc Đức-Quốc-Xã thắng thế quân sự (đến khi kết thúc cuộc chiến), chúng không bao giờ chiếm được lòng và trí nhân dân.

Thường thường, những ngày đó, các hội thánh đầy người.  Nhưng trong chiến tranh, điều gì đó xảy ra khiến các hội thánh vắng hoe.  Các giám mục và linh mục, khao khát trung thành với Đức Chúa Trời và Kinh Thánh, kháng cự những nỗ lực Đức-Quốc-Xã muốn điều khiển hội thánh và nội dung bài giảng.  Các mục sư lý luận rằng nếu tất cả họ cùng là một, không gì có thể xảy ra cho họ.  Tất cả họ bị bắt và tống vào các trại tập trung.  Hầu hết họ không bao giờ trở về được.

Nhiều Cơ-đốc-nhân Na-Uy hội họp tại nhà riêng cách bí mật để thờ phượng và tránh các hội thánh trong chiến tranh đó.

Cũng cùng sự việc xảy ra với các giáo viên trường học.  Đức-Quốc-Xã chiếm lấy giáo trình các trường học.  Các giáo viên kháng cự đồng lòng như một.  Họ cũng bị bắt và tống vào các trại tập trung.  Hầu hết không bao giờ trở về được.

Bảo tàng viện đó giữ một cuốn sách năm 1941 viết bằng tiếng Na-Uy được Đức-Quốc-Xã dùng trong các trường học.  Trong đó, họ trích Kinh Thánh: “Ai là những người được kêu gọi trong Rô-ma 13:1 mà Đức Chúa Trời đã đặt trên chúng ta?  Có phải các em xét rằng cha mẹ các em, giáo viên các em (hiệu trưởng các em), cảnh sát, cảnh sát trưởng, thẩm phán, linh mục, giám mục, nghị viên thành phố, chính phủ nhà nước, là những nhà chức trách được phong định bởi Đức Chúa Trời, và các em phải tuân phục họ không?” 

Rồi sách đó nói, “Toàn thể, chúng ta phải tuân phục Quốc Trưởng và chính phủ.  Nếu các em tự chống lại nhà chức trách và chống lại nhà nước, các em đang chống lại cấu trúc của Đức Chúa Trời và đáng phải bị trừng phạt.”

Ta hãy bàn về việc ma quỷ trích Kinh Thánh.

Trong thực tế, Quốc Trưởng thù nghịch với Đạo Chúa.  Hitler có lần tuyên bố, “Cú giáng nặng nhất từng đánh loài người là sự ra đời của Đạo Chúa.  Chủ nghĩa Bôn-sơ-vít là đứa con ngoại hôn của Đạo Chúa.  Cả hai là phát minh của Do Thái.”  Nhưng ông ấy rất vui để những tay sai bóp méo Kinh Thánh Đạo Chúa cho mục đích riêng của ông ta.

Lời Chúa là trong sạch và đúng đắn.  Nhưng không có nghĩa là nó đôi khi có thể bị bóp méo bởi ý định kẻ ác để đạt những mục đích trái ngược thông điệp Kinh Thánh.  Có thời kỳ và nơi chốn cho mọi việc dưới trời, gồm cả (đôi lúc) việc bất tuân dân sự.

 Mới đây tôi xem qua một bức thư chưa xuất bản của D. James Kennedy (11/29/1988), trong đó ông bàn về vấn đề này: “Những nguyên tắc Kinh Thánh căn bản, tôi tin là những điều này: 1) Tất cả thẩm quyền đều từ Đức Chúa Trời.  2) Tất cả thẩm quyền con người được ban cử cho từ Đức Chúa Trời.  3) Không thẩm quyền con người nào có thể hủy bỏ được thẩm quyền của Đức Chúa Trời.  4) Nếu những luật nghịch lại Kinh Thánh như thế, Người-Theo-Chúa bắt buộc phải bất tuân chúng trong lương tâm.  5) Họ bắt buộc phải chuẩn bị chịu thống khổ vì những hệ lụy của những hành động của họ.”

Rồi ông kết luận toàn điểm đó: “Sự tồn tại chính của Đạo Chúa tùy thuộc vào Người-Theo-Chúa tuân phục những nguyên tắc này.  Giả sử họ không làm vậy, Đạo Chúa, là đạo đầu tiên bị đặt ngoài vòng pháp luật tại I-sơ-ra-ên và rồi tại Đế Quốc La-Mã, chắc chắn ngưng tồn tại cách đây nhiều thế kỷ rồi.”