(MS The Van Le có nhã ý post bài tự truyện của ông
trong blog này như cuộc đồng hành hồi hương thiên quốc để trở nên một Little Jesus.
Mời bạn cùng đồng hành.)
by Pastor
The Le Van
Mira Mesa Vietnamese Baptist Church Sandiego, CA 92105thevanle1711@yahoo.com
1. Bóng người trên vách
Một tối
Chúa Nhật mùa hè 1982, sau lần vượt biên cuối cùng bị thất bại; kẻ lường gạt là
người bạn đồng nghiệp học cùng khóa với tôi. Anh ấy cùng vợ âm mưu lừa gạt để
lấy vàng. Anh ta đã quay lưng lại với tình bạn và bán đứng chúng tôi “vừa ăn
cướp vừa la làng,” làm điều ngược ngạo đe doạ tố cáo với chính quyền chúng tôi
rủ rê vượt biển.
Trời vừa
sáng, tôi đạp xe lần mò trên những con đường cát trắng quanh co và cuối cùng đã
tìm được nhà của Cư. Cậu ta là học trò của “kẻ phản bội” đã cùng thầy mình sắp đặt kế hoạch, dùng vàng
đã lấy cướp chia cho nhau. Cư đứng ra nhận là kẻ chủ mưu trong vụ cướp giựt
này. Cậu ta dùng chiếc búa tạ to tướng trên tay đòi đập chết tôi tại chỗ. Trước
tình thế căng thẳng, không còn cách nào hơn là thuyết phục cậu ấy bằng tình cảm.
Tôi đã dùng những lời lẽ thật ôn tồn để giải thích với Cư biết số vàng đó từ
đâu mà có. Luơng tâm bị đánh động, bỗng dưng Cư thả chiếc búa xuống và đổi
giọng:
-Tôi xin
lỗi anh, thật ra tôi không có chủ mưu cướp vàng của anh. Chuyện tổ chức vượt
biên là có thật, nhưng vàng lại lọt vào tay vợ chồng Thầy Nhân. Chính họ là kẻ
chủ mưu ăn cướp. Sáng nay ổng qua đây đưa cho tôi mấy chỉ vàng và bảo tôi nhận
là kẻ cướp vàng của anh...
Hắn đùng
đùng tức giận quay lưng lại chỉ vào mặt thầy của hắn:
-Thầy
Nhân, tôi không thể làm điều bất nghĩa đó được, tôi sẽ bị quả báo. Thầy ra khỏi
nhà tôi đi và tốt nhất,vợ chồng thầy đem trả số vàng đó cho Thầy Thể.
Nhân xấu
hổ vì bị lột chiếc mặt nạ đạo đức giả nhân giả nghĩa, đứng trơ ra chưa biết
phải làm gì. Tôi đã đoán trước điều này, nên rất bình tĩnh:
- Thôi
anh Nhanh, sự thật đã rõ, nhưng tôi chẳng trách anh đâu. Anh chị nên đem trả số
vàng lại cho chúng tôi coi như không có chuyện gì xả ra.
Nhanh đổi
nét mặt tái mét và trở nên hung hãn:
- Đươc
rồi! Tao sẽ có cách. Tao sẽ tố cáo bọn bay tổ chức vượt biên. Nói xong Nhanh
đạp xe đi. Tôi thẫn thờ chẳng biết tính ra sao, bèn rủ Cư sang nhà tôi bên phố để hỏi thêm cho
ra ngọn ngành.
Buồn bã
trước nhân tình thế thái, đắng cay trước sự đời,đau khổ vì những ước mơ không
còn thực hiện được nữa; chẳng biết những ngày còn lại sẽ về đâu. Tôi lang thang
ngoài đường suốt ngày hôm ấy. Buổi tối, dừng chân bên quán sinh tố trước cổng
nhà thờ Tin Lành 164 Ông Ich Khiêm Đà Nẵng. Uống chưa xong ly trái cây, bất
chợt nhìn vào bên trong, tôi thấy vị thầy kính yêu của tôi thời trung học tay
ôm quyển Kinh Thánh dưới mái hiên nhà thờ trông hiền lành và đạo mạo qúa! Như
cái máy, tôi bước đến khẽ chào thầy.
- Thưa
thầy, thầy khoẻ không?
Mắt thầy
sáng lên trong đôi kính trắng:
- Thể
phải không? Gặp lại em thầy mừng qúa!
Thầy nắm
tay tôi dắt vào bên trong những hàng ghế. Câu chuyện hàn huyên ngắn ngủi giữa
hai thầy trò tạm dừng lại vì chương trình truyền giảng Tin Lành đã bắt đầu. Đêm
ấy thầy truyền đạo Nguyễn Xuân Sanh chia sẻ đề tài “Loài người gian ác.” Lời
của Chúa nhanh chóng chạm mạnh vào lòng tôi ngay trong giờ phút ấy. Tôi cảm
nhận được mình là một tội nhân trước mặt Thượng Đế. Tôi cảm thấy dường như một
dòng điện chạy vào trong da thịt mình làm cho những tế bào rung lên trong sự
choáng ngợp của tình yêu thiên thượng. Bây giờ tôi không còn phải bận tâm đến
kẻ phản bội, mà tôi đang suy nghĩ đến linh hồn mình. Tôi chỉ mong rằng được
Chúa tha tội và linh hồn được cứu khỏi thế giới xấu xa này. Tôi mạnh dạn rời
chỗ ngồi, tiến lên phía trước cây thập tự và quì xuống để các
vị mục sư cầu nguyện tiếp nhận Chúa Jêsus.
Ngay
trong giờ phút thiêng liêng ấy một cảm giác nhẹ nhàng tràn ngập trong tâm hồn.
Tôi hân hoan bước ra khỏi nhà thờ lòng tự nhủ: “Quả nơi đây có những khuôn mặt
nhân từ đôn hậu, những con người đáng mến, những nụ cười rạng rỡ thân thương.”
Tôi bách bộ giữa dòng người đông đúc. Phố xá của một đêm Chúa nhật vẫn rộn ràng
hơn ngày thường; mặc dù giai đoạn này là những tháng năm cực kỳ khó khăn của
một đất nước sau nhiều biến đổi.
Tiếng còi
xe inh ỏi hối thúc nhau, mùi cống rãnh xông lên ngột ngạt trong bóng đêm của
những con đường cúp điện. Tiếng người bán vịt lộn khàn đục trong ngõ hẻm vang
lên. Đằng xa, vài bác xích lô tranh nhau giành khách. Tiếng ho của một cụ già
bên vỉa phố làm cho tôi bừng tĩnh và nhớ ra rằng cả ngày hôm nay tôi chưa có
một thứ gì trong bụng ngoài ly sinh tố còn dang dở. Bụng đói, người mệt nhoài,
nhưng trong tôi như vừa được tiếp sức bởi một quyền năng vô hình. Bên trong và
ngoài nhà thờ chỉ cách nhau một hàng rào sắt, thế mà hai cuộc sống và những con
người hoàn toàn khác biệt.
Tôi về
đến trước cổng nhà mình, nhìn vào bên trong đèn vẫn còn sáng và bóng người phụ
nữ in trên vách. Lòng tôi tràn ngập niềm vui vì sắp kể cho nhà tôi nghe sự thay
đổi trong đời; bởi tiếng gọi của một tình yêu vĩ đại.
2- Những
khúc quanh nghiệt ngã
Cháu đầu
được một tuổi thì cháu thứ hai lại ra đời. Vợ tôi nằm ở một nhà hộ sinh Phường.
Từ sáng cho đến tận chiều vẫn chưa sinh được. Cơn đau vẫn cứ kéo dài. Tôi cảm
thấy nhà tôi không còn đủ sức chịu đựng thêm nữa, nên sau khi cầu nguyện xong,
tôi quyết định đưa nhà tôi lên bệnh viện Đa Khoa. Đây là bệnh viện lớn nhất của
thành phố Đà Nẵng. Sau đó nhà tôi ở lại cùng bà ngoại, còn tôi hối hả chạy về
nấu cơm mang lên cho vợ. Vừa bước đến hành lang, thì mẹ vợ của tôi reo mừng:
- Sinh
rồi, con trai.
Sung
sướng quá, tôi chạy vào bên trong cũng là lúc người ý tá bế đứa nhỏ đi dọc theo
hành lang lên lầu. Tôi vội vã bám theo phía sau. Nhìn thằng bé kháu khỉnh, mủi
cao, trán rộng, hai tai to lớn, đôi môi trái tim, lòng tôi rộn ràng một niềm
vui khó tả!
Thế rồi,
cô ý tá lặng lẽ bỏ thằng nhỏ vào chiếc lồng kính để thở ô-xy, tôi hồi hộp và lo
sợ. Một cảm giác mênh mang nào đó xâm chiếm tâm hồn.
Một ý nghĩ rùng rợn chợt đến. Tôi nhắm mắt lại cố
xua đi những điều đen tối ra khỏi đầu óc mình. Tôi vội quì xuống bên hành lang
lâm râm cầu nguyện. Khoảng một giờ đồng hồ sau, người y tá bồng thằng nhỏ ra
ngoài trao cho tôi, lắc đầu không nói gì. Tôi đưa tay đón lấy cháu, ôm sát vào
lòng. Chút hơi ấm sau cùng còn lại thoi thóp trên đôi môi. Lặng lẽ, tôi bước xuống
cầu thang, đôi chân tê cóng, lạnh lẽo. Một nỗi xót xa vô tận trào lên nghẹn cứng
ở cổ và tôi đã khóc. Một nỗi đau đớn nhói buốt mà lần đầu tiên trong đời tôi cảm
nhận được thế nào là tình phụ tử. Trong giờ phút cô đơn ấy, tôi cảm thấy Chúa ở
đâu xa lắm. Dường như Ngài không ở bên tôi, và trong tôi có chút dỗi hờn. Lúc
đó, đức tin tôi bị lung lay tự hỏi rằng sao Chúa để tôi trong hoàn cảnh nghịệt
ngã này?
Sau này,
khi trưởng thành trong Chúa, tôi mới hiểu ra rằng, người tín đồ Cơ-đốc không
phải là không chịu những thử thách khổ đau, nhưng trong mọi hoàn cảnh phải biết
cảm ơn Ngài. Chúa luôn cho con cái của Ngài những bài học để thử rèn, tôi luyện
trong đức tin của mình.
“Ý tưởng
ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối ta.
Vì các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối ta cao hơn ý tưởng các
ngươi cũng bấy nhiêu.” (Ê-sai
55:8,9)
Buổi
chiều hôm sau, mấy anh em chúng tôi đi chôn cháu ở Gò-Cà bằng hai chiếc xe
honda. Tôi đặt chiếc quan tài xuống đất, lòng đau như cắt.
Nắng
chiều nghĩa địa gay gắt. Trong giờ phút tận cùng của đau thương và cô đơn ấy,
tôi ngước mắt lên trời và thưa rằng: Chúa ôi! Sao Ngài đành để con trong nỗi
thống khổ này?
Trời hôm
ấy buồn bã lắm! Những đám mây đen sà xuống trên đỉnh núi. Chung quanh là mồ mã
với những sắc màu nham nhở. Nơi đây là chốn yên nghỉ cuối cùng của một đời
người. Nơi đây, kết thúc mọi nỗi buồn lo của những ngày sống tạm trên đất. Tôi
không dám nhìn vào mắt Vỹ, đứa em trai duy nhất của mình vì tôi biết rằng nó
cũng đang khóc như tôi. Còn Khanh, người em họ của tôi nhìn lên bầu trời vì lo
sợ cơn mưa, nói bâng quơ để giấu đi giọt nước mắt. Trực, người em vợ cuí xuống
không nói gì vì trong lòng nó cũng có nỗi đau chung.
Trong
hoàn cảnh này, chúng tôi vẫn có cớ ngợi khen Đức Chúa Trời; vì Ngài đã cho vợ
tôi còn sống. Nếu tôi không được thúc giục đưa nhà tôi đến bệnh viện Đa khoa
kịp thời, chắc hai mẹ con cũng đã qua đời vì kiệt sức.
Kinh
nghiệm này như là bài học đau thương làm tim tôi nhói lên mỗi lần nhớ đến vì
mặc cảm nghèo khổ và dại khờ. Thuở đó, vợ chồng chúng tôi qúa nghèo khó nên
không dám đến bệnh viện Te-re-sa như đứa con đầu. Ngoài ra, còn một mặc cảm
đáng thương khác, là vì mắc cở sinh hai năm hai đứa!
Mỗi ngày
một bận, tôi phải giả vờ lên bệnh viện thăm con vì chưa thể nói sự thật cho nhà
tôi biết là con mình đã qua đời. Đêm tối, trời cứ mưa rả rích bên ngoài, quần
xăn tới gối, tôi lò mò trong bếp để nấu cơm. Tôi khe khẽ lấy
những than lửa hồng bỏ vào cái trách để dành cho vợ nằm đỡ rét. Muà đông năm ấy
thật là kinh khủng, nhưng chúng tôi không thể nào có đủ tiền để mua một bao
than. Mỗi lần xúc gạo, tôi phải thật khẽ tay vì sợ rằng tiếng lon chạm vào đáy
thùng, vợ tôi sẽ lo buồn vì biết rằng nhà mình hết gạo. Những quyển sách trên kệ
đã thưa dần vì đã mang ra chợ trời cân ký; để đổi lấy vài con cá chiên cho vợ
ăn thêm trong lúc sinh đẻ. Còn tôi, mắm rau mỗi ngày sơ sài qua bữa. Mỗi sáng,
tôi áo ước có được một nửa chén cơm nguội của ngày hôm trước để bớt đi sự cồn
cào khi đạp xe đến trường giảng dạy. Mới tin Chúa, tôi e ngại không dám bày tỏ
hoàn cảnh của mình với ai để cầu thay. Vì vậy, tôi cố giấu nỗi đau trong lòng
và cố sống bình thường để làm vui vợ mình. Vả lại, tôi cũng chẳng muốn ai biết
mình khổ sở làm gì. Đêm đến, tôi lẻn
ra ngoài đạp xe thồ kiếm thêm chút tiền cỏn con để mua thêm thức ăn cho vợ.
Bao nhiêu
nỗi mệt nhọc và đắng cay của cuộc sống, tôi đành chấp nhận tất cả và tin tưởng
ở một ngày mai. Lòng tôi luôn trông đợi từ trên cao; chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ
nhìn xuống và Ngài sẽ rủ lòng thương.
“Sự chơn
thật nứt mộng từ dưới đất; sự công bình từ trên trời ngó xuống.” (Thi
Thiên 85: 11)
3. Đức
Chúa Trời trả lời
Mùa Thu
1983, sau khi ngủ dậy chúng tôi sững sờ vì tất cả áo quần đồ đạc trong phòng đã
mất sạch. Gia tài vỏn vẹn chỉ có chiếc radio sharp, một máy ảnh canon, một bàn
ủi điện và một số vật dụng không đáng giá, nhưng tất cả không cánh mà bay. Đây
là lần thứ hai chúng tôi bị ăn trộm. Buồn bực quá, tôi như người điên đạp xe
ngoài phố đến mấy nơi bán chợ trời để mong tìm lại được mấy món đồ đã mất. Suốt
nửa ngày vô vọng, tôi đạp xe thất thểu trở về và hét to lên rằng:
- Thượng
Đế ôi, thật có Ngài hay không? Con khốn khổ thế này mà sao Ngài cứ lặng thinh?
Hai ngày
sau,Chúa đã trả lời thật có Ngài và Ngài đã nghe hết sự cay đắng của lòng tôi.
Một điện báo của bưu điện đưa đến và tôi đã nhận được món quà từ Úc gửi về. Món
quà bán ra trị giá tương đương với những gì đã mất. Thế là lòng tôi lại lắng
xuống, đức tin được củng cố trở lại. Một người anh em trong Chúa hỏi tôi:
- Trong
những thứ bị mất, em tiếc nhất cái gì?
- Thưa
anh, cái radio em nghe tin tức mỗi ngày.
Anh ấy
lên lầu lấy chiếc radio của anh và trao cho tôi:
- Hãy cầm
lấy, anh cho em đấy. Và đây là số tiền 39 đồng, anh để dành cho những ai gặp
trường hợp rủi ro như thế này, em hãy cầm lấy mà mua lại mấy bộ áo quần để mặc
lên lớp.
- Dạ
không, em không thể làm như vậy được, vì anh cũng cần nghe tin tức như em.
- Đừng từ
chối số tiền, anh biết em đang cần đấy.
Tôi muốn
khóc vì cảm động trước tấm lòng của một người anh trong Chúa. Đó chính là anh
Lê Tự Cam bây giờ đang là Mục sư tại Portland, Oregon. Anh ấy đã san sẻ cho
chúng tôi những nhu cầu khẩn thiết. Tấm lòng nhân hậu và yêu thương ấy đã đi
với chúng tôi trong nhiều năm tháng. Chúng tôi học hỏi và noi gương anh trong
sự tập tễnh hầu việc Chúa. Cảm tạ Chúa, tình yêu của anh đã sưởi ấm lòng chúng
tôi là những đứa em còn non nớt trên đường tin kính. Ngày anh ấy rời bỏ quê
hương ra đi sang Hoa Kỳ, cái hình ảnh không thể nào quên được. Hàng mấy trăm
người vây quanh sân ga Đà Nẵng để tiễn đưa và dường như ai nấy mắt đỏ hoe.
Tiếng còi tàu rúc lên, con tàu nặng nề rời bến bỏ lại đằng sau bao nhiêu ánh
mắt nhìn theo. Âm thanh của những chiếc bánh sắt nghiến trên đường ray xình
xịch. Trong đời tôi, có lẽ đây là một trong những lần tiễn đưa buồn bã nhất.
Phượng nắm chặt tay tôi như cùng san sẻ nỗi xúc động. Anh ấy và gia đình rời
Việt Nam đã lâu, nhưng có lẽ chỗ trống vắng của anh trong nhà thờ khó ai lấp
kín được.
Tôi cảm
tạ Chúa vì biết được có nhiều con cái Chúa khác, cũng âm thầm sống cho Ngài.
Những tấm lòng đáng qúy ấy khó tìm thấy giữa thế giới đầy nhiễu nhương và biến
động này. Thầy Nguyễn Châu Hóa, một vị thầy khả kính đã khuyên nhủ, gần gũi
chúng tôi trong cảnh hàn vi. Trong những lúc mệt mỏi, ngã lòng có thầy bên
cạnh. Tình yêu chân thành của thầy giúp cho chúng tôi có thêm nghị lực. Chị Lê
thị Đào dịu dàng đầy cảm mến, chị Lê Thị Hạnh ngọt ngào, sâu lắng. Họ như những
than lửa hồng truyền hơi ấm và san sẻ cho những đứa em trong cơn khốn khó.
“Chớ quên
các việc lành và lòng bố thí, vì sự tế lễ dường ấy đẹp lòng Đức Chúa Trời.”
(Hêbơrơ
13: 16)
4. Chuyến
đi Bảo Lộc (Thị trấn B’lao)
Tháng 3- 1984 tôi cầu nguyện xin Chúa cho tôi đi Bảo Lộc để tìm một công việc sinh sống. “Lạy Chúa, xin Ngài thương xót gia đình chúng con. Đã từ lâu con không có cơ hội đi xa vì hoàn cảnh con Chúa biết rõ. Con muốn đi vào B’lao thăm người bạn thân, và tìm kiếm một việc làm. Ở đây, con thất nghiệp buồn lắm Chúa ôi! Xin Ngài cho con một dấu hiệu rõ ràng nếu Ngài bằng lòng cho con đi. Con cảm ơn Ngài!”
Thế rồi,
khoảng một tuần sau tôi nhận được thư của người bạn mà tôi dự định đi thăm. Đài
và tôi đã sống cách xa nhau hơn tám năm. Hôm nay, đột ngột lại viết thư về cho
tôi. Thật lạ lùng và thú vị! Tôi đọc đi, đọc lại nhiều lần cho Phượng nghe.
Trong thư Đài bảo tôi vào thăm chơi và nghiên cứu công việc sinh sống. Cậu ta
cho biết cuộc sống của cậu đã ổn định và muốn tôi vào để được sống gần nhau.
Chúng tôi là đôi bạn thân thiết thuở còn trung học tại quê nhà, rồi tiếp tục
cùng trọ chung nhà với nhau trong những năm tháng ở đại học Sài Gòn.
Vậy là
tôi có dấu hiệu của Chúa bằng lòng cho đi, nhưng tiền để đi chưa có. Tôi lại
tiếp tục cầu xin Chúa. Thật lạ lùng mấy hôm sau, bà ngoại của cháu đem lên cho
số tiền vừa đủ mua vé xe đò. Từ Đà Nẵng đến Nha Trang đoạn đường dài khoảng 500
cây số. Rồi từ đó phải sang xe đi Bảo Lộc hãy còn xa lắm! Cho nên, tôi cầu xin
Chúa cho tôi mua được cái vé tốt nhất, nghĩa là được ngồi cạnh tài xế hay ít ra
những ghế ở băng đầu. Thế nhưng, cầm cái vé trên tay tôi tuyệt vọng vì đó là
cái vé ngồi ở băng sau chót. Trên đường về nhà tôi tự nhủ: “Uả, sao mình đã cầu
nguyện rồi mà Chúa lại cho cái vé hạt bét này?” Tôi buồn lắm, nhưng không dám
nói với nhà tôi.
Sáng hôm
sau, khi lên bến xe và bước lên chỗ ngồi của mình, tôi mới biết rằng chẳng có
ai mua vé ở hàng ghế đó. Vì vậy tôi có quyền nằm xuống thoải mái, vắt chân tréo
cẳng ngỗng và mỉm cười. Bây giờ, tôi mới khám phá được điều kỳ diệu, Đức Chúa
Trời biết hết mọi sự. Ngài chăm lo từng việc nhỏ nhặt một cách chu đáo hơn
những gì tôi mong đợi.
Đến Bảo
Lộc trời đã tối, tôi không biết tìm điạ chỉ của bạn mình ở đâu. Trong thư bạn
tôi dặn dò:
- Xuống
xe xong, mày hỏi nhà Đài làm ở phòng giáo dục, có vợ tên là Vân bán mỹ phẩm ở
chợ Bảo Lộc, người ta sẽ chỉ cho.
Thế
nhưng, trời đã tối, phòng giáo dục đã đóng cửa, chợ cũng đã tan! Thời tiết cao
nguyên lạnh lắm về đêm. Mưa rả rích làm cho bộ áo quần ẩm ướt. Bụng cồn cào vì
đói. Người tôi mệt nhoài sau hai ngày đường vất vả. Thẫn thờ trong một lúc, tôi
chẳng biết tính làm sao. Nhớ đến Chúa, tôi bèn nhắm mắt lại để cầu xin: “Lạy
Chúa, xin Ngài chỉ đường cho con. Con thèm một bữa cơm tối, một giấc ngủ thật
ngon.” Tôi lại tiếp tục bách bộ và rẽ vào một con đường đất đỏ khá rộng. Đến
cuối đường, tôi dừng lại hỏi thăm một người đàn bà:
- Thưa
bác, bác có biết nhà anh Đài làm ở phòng giáo dục, có vợ là cô Vân bán mỹ phẩm
không ạ?
Ngay cái
cổng cậu đứng đấy! Người đàn bà nhã nhặn trả lời. Bà gọi giúp:
- Cậu Đài
ơi! Có ai hỏi thăm này. Bà nhìn tôi một lần nữa mìm cười phúc hậu. Tôi cảm ơn
bà rồi bước vào cổng ngõ.
Đài luýnh
quýnh chạy ra ôm lấy tôi, miệng bi bô:
- Cậu ôi,
ướt hết rồi! Làm sao mày tìm ra nhà giỏi vậy?
Tôi thong
thả kể cho Đài nghe về những điều lạ lùng mà Chúa đã ban cho. Hai chúng tôi gặp
lại nhau sau trong niềm sung sướng. Đêm ấy, chúng tôi kể cho nhau nghe những
biến cố xảy ra từ những ngày sau 1975 với bao nhiêu thay đổi. Chúng tôi ôn lại
quá khứ, điểm lại trong số bạn bè đứa nào còn đứa nào mất, hay lưu lạc phương
trời nào?
Thời tiết
cao nguyên thật tuyệt. Cái lạnh dễ thương và chúng tôi ngủ lúc nào không biết.
Chơi với
Đài khoảng mười ngày, tôi lại muốn trở về Đà Nẵng. Tôi cảm thấy vui mừng và
biết ơn Chúa vì được gặp lại bạn mình sau những nhớ nhung và mong đợi. Còn công
việc làm ăn thì không dễ dàng kiếm một việc thích hợp. Vả lại, cuộc sống anh em
chúng tôi bây giờ đã đổi khác. Đứa nào cũng đã có cái tổ ấm của riêng mình. Dầu
thương mến nhau nhưng xung quanh còn bao nhiêu bổn phận. Sự hồn nhiên, vô tư đã
thuộc về quá khứ của những ngày cắp sách. Tôi không muốn làm nhọc bạn, nên
quyết định trở về Đà Nẵng.
Chuyến xe
sáng rời bến khi trời B’lao còn đầy sương. Đài và tôi ôm nhau thêm một lần nữa.
Đài cho tôi chiếc áo lạnh da màu vàng. Tôi cho Đài cái mũ lưỡi trai để nhớ
tưởng đến nhau. Xe chạy một quãng, Đài vẫn còn đứng đó nhìn theo.
Trên
đường về, tôi mãi mê nhìn ngắm những đồi chè trải dài như con sông uốn khúc một
màu xanh bất tận. Những người phụ nữ da sậm đen với cái gùi đằng sau lưng và
đứa con nhỏ trước bụng. Cuộc đời của họ có lẽ là một tương lai mịt mùng vô
vọng. Họ gùi củi gạo, mắm muối, dầu chè và cất giấu nỗi niềm riêng. Đôi mắt họ
sâu hoắm có vẻ mệt mỏi; lê những bước chân nặng nề trên con đường bụi đỏ. Tôi
thầm tạ ơn Chúa vì tôi đã bắt đầu có sự bình yên trong lòng và tin rằng Đức
Giê-hô-va đang bước đi cùng mình. Tôi cũng thầm cầu nguyện cho những người phụ
nữ đáng thương kia một ngày được gặp Chúa, để nhận được sự cứu rỗi và yêu
thương. Những cái gùi trĩu nặng ấy Chúa sẽ gánh thay cho.
“Hỡi
những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên
nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và
học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. Vì ách ta dễ chịu và gánh
ta nhẹ nhàng” (Mathiơ 11: 28-30)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét