3
Nhóm
Truyền Giáo
Trở Lại Giê-ru-sa-lem
CHÚA đã xắn cánh tay thánh Ngài Lên trước mắt mọi
nước. Mọi người trên khắp quả đất Sẽ thấy
sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời chúng ta.
-- Ê-sai 52:10
Đầu những năm 1940, Đức Chúa
Trời kêu gọi rõ ràng một nhóm nhỏ Cứu-thế-nhân đang học tại Học Viện Kinh Thánh
Tây Bắc ở Tỉnh Shaanxi. Học viện này được
thành lập do James Hudson Taylor II (cháu nội nhà tiên phong nổi tiếng thế giới)
và vợ ông tên Alice khi cuộc dội bom lúc Nhật xâm lăng Trung Hoa buộc họ phải rời
Tỉnh Henan. Họ đi về hướng tây vào Tỉnh
Shaanxi, nơi họ có khải tượng thành lập trường Kinh Thánh. Lời cầu nguyện của họ xin miếng đất được nhậm
lời khi Mục Vụ Trung Hoa Lục Địa cho họ cơ sở gần thành phố Fengxiang. Đó là một cơ sở đẹp đẽ bao phủ bởi khu rừng
nhỏ đầy tre, với nhiều cây đầy lá reo vang các khu lớp học một tầng, phòng ở
sinh viên và nhà cho giáo sĩ.
Chính trong những khung cảnh tuyệt đẹp này mà Đức Chúa Trời
đã kêu gọi rõ rệt một nhóm nhỏ Cứu-thế-nhân, hướng dẫn bởi Mục Sư Mác Ma, hiệu
phó Học Viện. Đức Chúa Trời thách thức họ
hướng nỗ lực truyền giáo xa hơn tận đến người Hồi Giáo, Phật Giáo và người
Trung Hoa rải rác sống ở các tỉnh Gansu, Qinghai và Ningxia và tự dâng hiến đời
mình cho khải tượng đem tin lành vượt ngoài những biên giới Trung Hoa vào tận
thế giới Hồi Giáo, suốt đường trở lại Giê-ru-sa-lem.
Mác Ma và việc thành lập nhóm Trở Về Giê-ru-sa-lem
Mác Ma quê ở Tỉnh Henan. Con trai một có cha mẹ là Cứu-thế-nhân, ông
được giáo dục tại thành phố nhỏ Kaifeng và trở nên giáo viên trường nhà nước. Tuy thế, ông từ chối mở lòng ra với Chúa mãi
đến năm 1937, khi cái chết thảm kịch của con trai ông làm lòng ông tan vỡ và
khiến ông buồn rầu và ăn năn dưới chân thập tự giá. Ông bỏ nghề trần thế và theo lớp huấn luyện tại
Trường Kinh Thánh Giám Lý Tự Do (Free Methodist Bible School). Khi ông bà James Taylor chạy lánh đến
Shaanxi, Mác Ma, vợ và mấy đứa con cùng theo ông bà James. Ông trở thành hội viên sáng lập Học Viện Kinh
Thánh Tây Bắc.
Đầu năm 1942, Mác Ma tranh luận với Chúa qua đó thay đổi
đời ông vĩnh viễn và khiến ông được sức mạnh cần thiết cho công tác tiên phong
vào thế giới Hồi Giáo rộng lớn chưa ai biết.
Chúng tôi có bằng chứng từ chính ông về chuyện gì đã xảy ra khi ấy, và
những năm tháng theo sau:
Một chiều ngày 25 tháng Mười Một, 1942, trong khi cầu nguyện Chúa nói với tôi, “Cánh cửa vào Xinjiang sẵn sàng mở.
Hãy vào đó và giảng tin lành.” Khi tiếng nói ấy đến với tôi, tôi run rẩy và sợ hãi và thật không muốn vâng lời,
vì trong quá khứ tôi nhớ không hề
có giây phút nào cầu nguyện cho
Xinjiang; hơn nữa đó là nơi tôi không muốn đến. Vì thế, tôi chỉ cầu nguyện chuyện này thôi, thậm chí không hề nói cho vợ tôi biết.
Xinjiang, nghĩa là “Quyền Thế
Mới,” là một vùng rộng lớn tây bắc Trung Hoa trước đây được biết đến như là xứ
Đông Turkestan. Là nơi đã và đang có
hàng triệu người Hồi Giáo cư ngụ, đại đa số nói tiếng dòng giống Turkic, như
Uygur, Kazak, Kirgiz và Uzbek. Những
nhóm Hồi Giáo khác là Tajiks, Tatars và dân Hui nói tiếng Trung Hoa. Một số lớn Phật-tử du mục Tây Tạng cũng cư ngụ
vùng Xinjiang. Chẳng lạ gì Mục Sư Ma
không muốn đến vùng đất ông biết rất ít đó.
Lời tường thuật của ông tiếp theo sau:
Sau
đúng năm tháng cầu nguyện, vào sáng Phục Sinh ngày 25 tháng Tư, 1943, khi hai đồng
sự viên và tôi đang cầu nguyện với nhau trên bờ sông Wei, tôi nói với họ về sự
kêu gọi tôi đến Xinjiang và một
trong các đồng sự nói rằng mười năm trước cô cũng đã nhận sự kêu gọi tương tự
này. Tôi tạ ơn Chúa Ngài đã dự bị sẵn một
đồng sự viên. Khi trở lại trường tôi biết
thêm rằng cùng ngày Chúa Nhật Phục Sinh
lúc giờ thờ phượng sáng sớm, tám sinh viên cũng bị nặng lòng về Xinjiang.
Buổi thờ phượng sáng Phục
Sinh đó năm 1943 mà ông đề cập như trên là bằng chứng khởi đầu cho một chuỗi biến
cố quyết liệt thay đổi nhiều đời sống. Ảnh
hưởng của thời gian cầu nguyện đó hãy còn được cảm nhận trong hội thánh Trung
Hoa đến ngày nay. Trong khi Mục Sư Ma
không có mặt tại buổi thờ phượng đó, chúng tôi có tường thuật khác về những biến
cố đó từ nguồn khác:
Trên mặt nền đất cứng khu sân nhỏ,
dưới những cây cao nhánh dầy tủa
thành mái lá trên đầu, bản đồ
Trung Hoa được vẽ ra bằng vôi trắng. Các
sinh viên đứng xung quanh, nhìn
nó. Lần nữa họ được nghe về nhu cầu những tỉnh lớn ở phía Bắc và Tây . . . Bầu trời tỏa sáng hướng đông, và những tia sáng mong manh xua đi đêm xám dần phai. Thật yên
tĩnh nơi khu sân nhỏ, và nét vẽ màu vôi trắng bản
đồ trên mặt sân đó lộ ra rõ rệt. Giây
phút long trọng đã đến, đem
theo đó sự yên lặng gần như nghẹt thở.
“Hãy để những ai đã nhận lấy sứ mạng của Chúa rời bỏ nơi ở của họ rồi đi
và đứng tại tỉnh thành Chúa đã kêu
gọi họ.” . . . Có sự khuấy động trong
nhóm sinh viên. Những bàn chân quấn vải di động không tiếng động khi một người,
rồi một người khác nữa, bước
ngang qua sân về phía bản đồ. Rồi khi mặt
trời ló dạng chân trời xa, tám người trẻ đang đứng yên lặng trên khoảng đất nhỏ
được đánh dấu XINJIANG.
Đây là những sinh viên cùng
Mác Ma tham gia sự kêu gọi. Lời tường
thuật của ông tiếp tục, với câu chuyện sống động về cuộc đàm thoại với Đức Chúa
Trời:
Với
niềm vui sướng tôi nhóm họ lại với nhau, và chúng tôi vạch chương trình nhóm cầu
nguyện đều đặn. Được phép ban giảng huấn, chúng tôi quyết định tối thứ Ba là
nhóm cầu nguyện hàng tuần. Vào tối ngày
4 tháng Năm chúng tôi tổ chức buổi cầu nguyện đầu tiên và có 23 người. . . . Vào
ngày 11 tháng Năm chúng tôi nhận được món tiền đầu tiên cho công tác đó, lên đến $50.
Dần
già, những câu hỏi nảy ra như nhóm nào của chúng tôi nên được kêu gọi. . . . Sáng
ngày 23 tháng Năm khi tôi kiêng ăn và
cầu nguyện về tên của Nhóm, Chúa tiết
lộ câu Kinh Thánh trong lòng tôi, “Tin lành này về nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến.” (Ma-thi-ơ
24:14)
Tôi
nói, “Ôi Chúa, điều này nghĩa là gì?”
Chúa trả lời, “Đó là, Ta không chỉ muốn hội thánh Trung Hoa mang lấy
trách nhiệm đem tin lành đến Xinjiang nhưng Ta muốn con hoàn thành sứ mạng giảng
tin lành khắp thế giới.” Tôi hỏi, “Ôi Chúa,
không phải tin lành đã được giảng khắp thế giới rồi sao?” Chúa phán, “Từ lúc bắt đầu lễ Ngũ Tuần, Tiểu
Lộ tin lành đã lan ra, lớn hơn, về hướng tây; từ Giê-ru-sa-lem đến An-ti-ốt đến
khắp Châu Âu; từ Châu Âu đến Châu Mỹ và rồi đến Phương Đông; từ Đông Nam Trung
Hoa đến Tây Bắc; đến nay từ Gansu vùng phía Tây có thể nói là không một hội
thánh nào được thành lập vững vàng. Con
có thể đi về vùng hướng Tây từ Gansu, giảng
tin lành suốt lối trở lại Giê-ru-sa-lem, khiến ánh sáng tin lành hoàn thành một
vòng quanh thế giới tăm tối này.” Tôi nói, “Ôi Chúa, chúng con là ai mà có thể gánh vác một trách nhiệm nặng
nề như thế?” Chúa trả lời, “Ta muốn bày tỏ quyền năng Ta
qua chính những kẻ không năng lực.”
Tôi nói, “Phần lãnh thổ đó ở dưới quyền lực Hồi Giáo và người đạo Hồi thật cứng
lòng nhất trong các dân không thể đến bằng tin lành được.”
lòng nhất trong các dân không thể đến bằng tin lành được.”
Chúa trả lời, “Dân phản loạn nhất là Do Thái,
cánh đồng làm việc cứng cỏi nhất là dân Do Thái thuộc riêng Ta.”. . .Chúa tiếp tục phán, “Ngay cả các con là người Trung
Hoa, chính con nữa, cũng thật cứng cỏi nhưng các con cũng đã được tin
lành chinh phục rồi.”
Tôi hỏi, “Ôi Chúa, nếu chẳng phải lòng họ quá cứng cỏi, tại sao các giáo sĩ từ Châu Âu và
Châu Mỹ đã thành lập nhiều hội thánh ở Trung Hoa nhưng vẫn không thể mở cửa
vùng Tây Á Châu?”
Chúa trả lời tôi, “Chẳng phải lòng họ quá cứng cỏi, nhưng Ta dành cho hội thánh Trung
Hoa một phần di sản, nếu không, khi Ta trở lại, há chẳng phải ngươi thật nghèo nàn ư?”
Hoa một phần di sản, nếu không, khi Ta trở lại, há chẳng phải ngươi thật nghèo nàn ư?”
Khi tôi nghe Chúa nói Ngài dành cho chúng tôi một phần
gia sản, lòng tôi tràn ngập Tạ
Ơn và miệng tôi thốt những lời Ha-lê-lu-gia! Tôi ngừng tranh luận với Chúa.
Ơn và miệng tôi thốt những lời Ha-lê-lu-gia! Tôi ngừng tranh luận với Chúa.
Vào ngày 23 tháng Năm, 1943,
Mác Ma thuật lại khải thị trên cho nhóm cầu nguyện. Họ quyết định cần đặt tên cho nhóm của họ là
Bian Chuan Fuyin Tuan, nghĩa đen là “Nhóm Rao Giảng Tin Lành Mọi Nơi.” Đây là cái tên mà người Trung Hoa ngày nay
còn nhớ đến nhóm nhỏ những người nam và nữ đầy đức tin này, nhưng các giáo sĩ đồng
ý tên tiếng Anh của phong trào này nên là “Nhóm Trở Lại Giê-ru-sa-lem.”
Một trong những giáo sĩ đóng vai trò quan trọng những
ngày đầu của nhóm là Helen Bailey, giáo sĩ hệ phái Trưởng Lão người Mỹ đã sống ở
Trung Hoa phần tư thế kỷ. Bà sống trong
khu Học Viện Thánh Kinh Tây Bắc và rất được sinh viên và ban giảng huấn yêu mến. Bà nuôi dưỡng và khích lệ khải tượng Đức Chúa
Trời đã ban cho những người trẻ nam và nữ Trung Hoa này, nhưng khi họ mời bà
gia nhập Nhóm, bà khôn ngoan từ chối, tin rằng đó sự kêu gọi chính cho hội
thánh Trung Hoa vì thế nó nên là phong trào bản địa.
Đường lối của những người hướng dẫn Nhóm là không xin tài
chánh bất cứ cách nào, nhưng chỉ cầu nguyện và tin cậy Đức Chúa Trời cung cấp
cho họ mọi nhu cầu. Dâng hiến bắt đầu đến
từ khắp Trung Hoa từ các tín đồ lòng được chạm đến bởi khải tượng này và được cảm
động tham gia. Helen Taylor bình luận:
Theo cách thật lạ lùng, tiền đổ vào ngân qũi hầu như từ mọi nguồn Trung Hoa và họ cảm
thấy phải dùng hết những gì được gửi đến và trông cậy Đức Chúa Trời gửi thêm nữa.
Cứu-thế-nhân Trung Hoa từ nhiều nơi, nghe về công tác này liền dâng hiến rộng rãi. Rõ
ràng phong trào này được cảm động bởi Đức Chúa Trời.
thấy phải dùng hết những gì được gửi đến và trông cậy Đức Chúa Trời gửi thêm nữa.
Cứu-thế-nhân Trung Hoa từ nhiều nơi, nghe về công tác này liền dâng hiến rộng rãi. Rõ
ràng phong trào này được cảm động bởi Đức Chúa Trời.
Dù tính khẩn thiết của sự kêu
gọi đó, mãi đến 1944 mới có ba nữ và hai nam được gửi đến Lanzhou ở Tỉnh Gansu
phục vụ ngắn hạn. Năm 1945 hai nam được gửi đến giảng tin lành giữa những người
Hồi Giáo Hui ở Ningxia. Năm 1946 Chúa
kêu gọi hai ông, Mecca Chao và Timothy Tai, đến tây bắc vùng Xinjiang phục vụ
ngắn hạn.
Bây giờ sự kêu gọi được thực hiện theo cách trọng đại
hơn, một buổi họp bàn được tổ chức ngày 15 tháng Năm, 1946, qua đó hiến pháp được
chấp thuận và các chức sắc được tuyển chọn, đó là tổ chức đầu tiên phong trào
Trở Lại Giê-ru-sa-lem. Hiến pháp gồm những
lời tuyên bố sau:
Đây là nhóm hoạt động liên hệ phái nhưng không chống hệ phái, chấp nhận toàn bộ Kinh
Thánh là mặc khải của Đức Chúa Trời. Mục đích nhóm là nối kết các thành viên thân thể Chúa một mối đoàn kết để dâng sức mạnh và ý chí cho việc
giảng tin lành để sẵn sàng cho sự
trở lại của Chúa. Lãnh vực công tác gồm hai phần:
Trước hết, công tác tiên phong như sau:
1) Trong bảy tỉnh biên giới Trung Hoa: Xinjiang, Mông Cổ nội địa, Tây Tạng, Xikang (những
vùng Tibetan thuộc phía tây Sichuan ngày
nay), Qinghai, Gansu, Ningxia.
2) Trong bảy quốc gia biên giới Châu Á: Afghanistan, Iran, Arabia, Iraq, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Palestine.
Thứ
hai, chú ý thành lập các hội thánh mới trong những vùng vừa được truyền giáo
cùng chăn dắt và gây dựng các hội thánh đang có, trong những khu vực tiên phong
chúng tôi đặt kế hoạch thành lập các
hội thánh theo khuôn mẫu Kinh Thánh. Ở những
nơi đã có hội thánh, chúng tôi đặt kế hoạch phục vụ những hội thánh đó. Chúng tôi chỉ trông nhìn duy Đức Chúa Trời về
tài trợ tài chính.
Mác Ma luôn được xem là lãnh
đạo của Nhóm Truyền Giáo Trở Lại Giê-ru-sa-lem.
Ngoài trách nhiệm hiệu phó Học Viện Thánh Kinh Tây Bắc và chương trình bận
rộn công tác truyền giáo, ông gánh vác thêm trách nhiệm đi khắp Trung Hoa, “kêu
gọi hội thánh vào cuộc chiến cầu nguyện và tâm linh nhân danh Nhóm Truyền Giáo
Trở Lại Giê-ru-sa-lem., và chiêu mộ tình nguyện viên phục vụ công tác vĩ đại
này.”
Những lời sau của chính Mác Ma nêu lên sự thật về thế hệ
tín đồ Trung Hoa ngày nay hiện đang tiến lên với tấm lòng tận hiến hoàn thành sự
kêu gọi vĩ đại này:
Hy vọng của tôi là hội thánh Trung Hoa với quyết tâm và can đảm sẽ nắm chặt trách nhiệm
vĩ đại này và, nhờ vào Đấng Cứu
Thế toàn thắng của chúng ta,
hoàn thành công tác khổng lồ, và hưởng lấy di sản
vinh hiển, đem tin lành trở lại Giê-ru-sa-lem. Nơi
đó chúng ta sẽ đứng trên đỉnh Núi Zion và nghênh
đón Chúa Giê-xu Cứu Thế chúng ta giáng lâm
từ đám mây trong vinh hiển!
Những Nhà Tiên Phong
Tháng Ba 1947 hai nam và năm
nữ khởi hành chuyến hành trình dài gian nan về hướng tây đến Xinjiang. Mỗi người chỉ mang một gói nhỏ và một chậu rửa. Trong tạp chí Nhóm Trở Lại Giê-ru-sa-lem ấn hành
trước khi nhóm khởi hành, họ viết:
GIỜ HÀNH ĐỘNG ĐÃ ĐIỂM!
HÃY MỞ CUỘC CHIẾN ĐỨC TIN!
Đây
là những lời Chúa cho chúng tôi. Ngài đã
chỉ ra một số người sẽ sớm ra đi về Tây Bắc.
Nên chúng tôi không xem thông điệp này là cho chúng tôi, nhưng đây là mạng lịnh -- một mạng lịnh cấp
thiết phải tiến lên. Đây là thông điệp
đòi hỏi gươm và máu, nhưng cũng có vương miện và bài ca. Thế nên nó làm run sợ kẻ yếu, nhưng khiến máu
kẻ mạnh vượt cao.
Ngợi
khen Chúa, đã sẵn sàng năm phụ nữ ở Fengxiang được Chúa gọi, và vâng theo sứ mạng
Ngài, họ quyết định ra đi đến vùng Tây tháng Ba tới (1947). Có lẽ lời
tiên tri Thi Thiên 68:11 sẽ chóng
ứng nghiệm giữa chúng ta, “Chúa truyền lịnh,
Thì ngay cả đàn bà cũng loan tin như một đạo binh đông đảo.” Nhận thức những nguy hiểm và gian khổ con đường
trước mắt họ, chúng tôi sợ rằng đó không
phải con đường mà các thiếu nữ này nên
đi, nhưng một trong các cô nói, “Chúng tôi có lẽ không đến đó được, chúng tôi
có lẽ chết trên đường, nhưng chúng tôi sẵn sàng đổ máu chúng tôi trên xa lộ đến
Núi Si-ôn.” . . . Đây cho thấy tầm cỡ các thiếu nữ giáo sĩ của chúng ta. Nhưng về các anh thì sao? Anh em ơi, hãy tỉnh
thức!
Các phụ nữ này là ai? Tên họ là Ho En Cheng, Lu Teh, Li Chin Chuan,
Fan Chi Chieh và Wei Suxi. Chúng tôi biết
một số điều về họ và thể nào họ dấn thân vào hành trình cực nguy hiểm thế, và sẽ
tập trung ngắn gọn vào ba trong số năm cô ấy.
Ho En Cheng (Ho Ân Sủng) được mẹ cô dâng cho Chúa khi mới sanh. Lúc nhỏ cô đã quen với Kinh Thánh và dán những
địa danh như Giê-ru-sa-lem, Bethany và Núi Si-ôn quanh sân nhà! Sau khi tốt nghiệp Trường Kinh Thánh ở Tianji
năm 1937, Ho En Cheng 17 tuổi nhận lấy sự kêu gọi rõ ràng từ Chúa để đem tinh
lành vào Xinjiang, và sau đó xuyên đường trở lại Giê-ru-sa-lem:
Cô
đang tham dự buổi nhóm truyền giáo, và khi hội chúng đứng lên cầu nguyện, cô nhận
thấy một khải tượng từ Chúa. Vùng chung
quanh cô lập tực phai nhạt đi vì khải tượng đó, và cô dường như đang đứng một
mình trong cánh đồng vắng bao la sáng rực. Từ xa cô nghe tiếng nói -- tiếng nói đầy đau
khổ, đau đớn kêu khóc xin cứu. Cô nhìn nhưng
chẳng thấy ai, chỉ có kinh hoàng của đêm tối cực kỳ là nơi tiếng kêu đau đớn
vang đến. Rồi, khi cô nhìn chằm chằm, một tiếng nói khác đến,
Tiếng Nói từ trời, đượm đầy thương xót và đồng cảm. “Người trong tối tăm không có ai giảng Tin
Lành cho họ.” Xúc động mạnh bởi Tiếng Nói đó, nước mắt tuôn
trào đầy mắt cô, cô đáp lời, “Ôi Chúa, có con đây.”
Mười năm sau, sau khi trở nên
thành viên Nhóm Truyền Giáo Trở Lại Giê-ru-sa-lem, chương trình cô Hen là đi đến
thành phố Kashgar --cực điểm phía tây Trung Hoa -- để học tiếng Turkic và Ả-rập
trước khi rời Trung Hoa đến Trung Á và Trung Đông.
Lu Teh (Ruth Lu) đến từ Quận Fengqiu ở Tỉnh Henan.
Cô được Chúa cứu năm 1940 và rất thương cảm những linh hồn lạc mất. Cô quyết định gia nhập Học Viện Thánh Kinh
Tây Bắc. Cô nhớ lại:
Ngày kia tôi đang qùi gối cầu nguyện, Chúa gọi tên tôi và trong
một khải tượng Ngài chỉ tôi thấy tình trạng
tâm linh khô hạn đáng thương của vùng Tây Bắc. Tôi thấy đám đông linh hồn trong thung lũng núi kêu cứu mạng sống họ. Lạc lối, họ không biết cách nào tìm Chúa Chân Thần là Đấng có
thể cứu họ. Tiếng Chúa phán với tôi, “con Ta ơi, con có sẵn sàng đi và cứu họ không?” Khi tiếng nói này đâm xoáy lòng tôi, không ngần ngừ tôi đáp lời, “Ôi Chúa, nữ tôi tớ Ngài sẵn sàng vâng theo ý
muốn Ngài.”
Lời kêu gọi thiếu nữ này là
đi đến Kashgar ở Xinjiang để học những ngôn ngữ giúp cô tiếp cận Afghanistan.
Li Chin Chuan
sanh ra trong gia đình Hồi Giáo. Cha mẹ
cô chết khi cô còn rất nhỏ, và cô về sống với ông bà. Khi mới 12 tuổi, cô bỏ nhà và sa ngã vào đời
sống tội lỗi. Lúc 20 tuổi cô nghe tin
lành Chúa Giê-xu Christ lần đầu tiên. Cô
tin Chúa và được cứu. Năm 1941 cô vào Học
Viện Thánh Kinh Tây Bắc. Ba năm sau,
1944, Li là một trong những người truyền giáo ngắn hạn cho vùng Lanzhou thuộc Tỉnh
Gansu là nơi cô gặp người dân Tây Tạng.
Sau khi trở lại trường Kinh Thánh, Li Chin Chuan thấy rằng:
Chúa thình lình đụng đến lòng tôi cho thấy nhu cầu đáng thương của người dân Tây Tạng. Lúc đó tôi không
đủ can đảm đáp ứng sự kêu gọi của Chúa, nhưng
sau khi trở lại từ Lanzhou, lời kêu gọi đó liên
tục đến với tôi, và tôi không thể không nhận lấy
thách thức từ Đức Chúa Trời. . . Chúa đã chất gánh
nặng Tây Tạng vào lòng tôi – cấy sâu vào lòng
tôi.”
Tháng Ba 1947 cô gia nhập với
các giáo sĩ Trở Lại Giê-ru-sa-lem khác và tiến về hướng tây.
Hai nam nhi khác trong nhóm giáo sĩ tiên phong này là
Chang Moxie (Chang Môise) và Mecca Chao.
Vì Mecca Chao là người để lại nhiều tài liệu chi tiết nhất, chúng ta tập
trung vào câu chuyện ông.
Mecca Chao
sanh tại Linxian, Tỉnh Henan, miền trung đông Trung Hoa. Lúc nhỏ gia đình anh chạy đến Tỉnh Shanxi
tránh nạn đói. Cuối thời kỳ niên thiếu
Chao bước vào mối liên hệ với Chúa Giê-xu Christ và đời anh biến đổi vĩnh viễn. Lòng anh được rờ chạm sâu sắc bởi tình yêu của
Chúa đến nỗi anh không ngần ngừ tận hiến mình cho Vua của muôn Vua, hứa đi bất
cứ nơi nào Ngài dẫn anh, để làm bất cứ điều gì chủ nhân mình đòi hỏi.
Thời gian ngắn sau khi anh được cứu, Mecca Chao đang cầu
nguyện xin hướng dẫn của Chúa về hướng đi đời mình khi anh nhận được khải tượng
trong đó anh thấy miếng giấy đưa trước mặt mình có chữ “Mecca” viết trên giấy
đó. Anh không hiểu chữ đó nghĩa là gì và
nôn nóng hỏi các Cứu-thế-nhân bạn xem họ có biết không, nhưng không ai có thể
giúp anh. Mecca Chao làm chứng, “Giờ đây
tôi biết Chúa Giê-xu thực là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời hằng sống; tôi đã
nghe tiếng Ngài và Ngài đã chỉ tôi rõ rệt lối đi mà tôi phải đi.”
Năm đầu tiên làm tín đồ, Mecca Chao kinh nghiệm Đức Chúa
Trời theo cách tương tự giống vô số các Cứu-thế-nhân hội thánh Trung Hoa ngày
nay. Đời anh biểu thị bởi sự ăn năn và sốt
sắng song song với cuộc chiến tâm linh căng thẳng.
Lúc
này đây sự sốt sắng của tôi cao độ. . . .
Đức Chúa Trời ban cho tôi quyền năng đặc biệt trong cầu nguyện. Mỗi buổi thờ phượng chúng tôi chỉ đọc Kinh
Thánh, hát và cầu nguyện. Mỗi khi tôi cầu
nguyện Chúa Thánh Linh hành động, bắt phục lòng người đến nỗi họ khóc và xưng
ra tội lỗi họ. . . Điều này tiếp tục trong nữa năm nhưng ma quỉ hoạt động với
quyền lực lớn lao -- tấn công tôi mọi phía; đặc biệt khi tôi cầu nguyện nó tỏ
ra quyền lực tinh quái của nó. Nó thường
đem đến trước mặt tôi những quái vật ghê
sợ, quái lạ để hù dọa tôi, khiến tôi cầu nguyện càng lúc càng ít đi, cho đến
khi tôi sợ không dám cầu nguyện nữa. . . . Từ từ tôi sa vào cám dỗ. Đời sống tâm linh tôi trở nên càng lúc càng
nguội lạnh mỗi ngày. . . .Tôi đi theo lối thế gian, tham vọng địa vị và giàu có
chiếm chỗ của Chúa trong đời tôi. . . Lòng yêu thương của Cha Trời chắc phải tổn
thương chua xót, nhưng trong sự bất tuân tôi không biết được thể nào lòng Ngài
đau đớn.
Trong nhiều năm kế tiếp anh
Mecca Chao sa ngã đi chiến đấu trong quân đội Trung Hoa, đối diện tử thần mỗi
ngày và cảm thấy thật khốn khổ nội tâm.
Anh bị bắt trong cuộc chiến và thành tù binh chiến tranh, trải qua tra tấn
rùng rợn và mất mát. Chính lúc đàng sau
những chấn song mà Chúa yêu thương gọi đứa con hoang đàng trở về vòng tay ôm của
Ngài. Trong ngục tù cô lập, bẩn thỉu đó
Chúa bắt đầu hồi phục tâm linh Mecca Chao và nhắc lại anh mọi điều anh đã bỏ
đi. “Tôi hỏi Chúa, ‘Ôi Chúa, có phải đây
là cuộc sống mang nghĩa “Mecca”? Có phải
đây là cách con phải trải qua?’”
Chúa trả lời bằng cách cho anh một khải tượng về tấm bản
đồ Tỉnh Ningxia, ngai của Hồi Giáo ở Trung Hoa.
Trong một khải tượng khác anh thấy con đường sáng dẫn về hướng tây mà
anh phải đi một ngày nào đó. Sau này anh
nói,
Đức
Chúa Trời nghĩ về tôi và cho tôi một tia hy vọng
xua tan sự ngã lòng lúc tù ngục. Ngài hứa
với tôi rằng tuổi 25 tôi sẽ ra tù và vào tuổi 27 tôi sẽ gánh lấy công tác được ủy
thác cho tôi. Điều này xảy ra chính
xác. Vào tháng Năm lúc tuổi 26 tôi đến Học
Viện Thánh Kinh Tây Bắc làm một sinh viên.
Vào tuổi 27 tôi đi giảng ở Tỉnh Gansu và vào mùa hè tôi đến chỗ mà tôi
thấy trong khải tượng -- Tỉnh Ningxia.
Chúng ta phải thực sự phụ thuộc vào sự thành tín của Đức Chúa Trời.
Sự sốt sắng của Chao giờ đây
chín chắn, anh khao khát biết lời Chúa cách sâu nhiệm và tường tận. Anh nói:
Sau khi trải qua bảy hoặc tám năm thử thách đau đớn, lắm khi trong khó khăn và nguy hiểm
cực kỳ, cuối cùng tôi đã đến được
trạng thái bình an và yên tịnh. Nếu chẳng bởi quyền năng lớn của Cha Trời của tôi, là quyền năng bảo vệ tôi,
chắc tôi đã trở về bụi đất từ lâu rồi. Dù tôi đã rất yếu sức vì gian khổ trong nhiều năm qua, nhưng tôi lại mạnh hơn khi tôi rời nhà cách đây nhiều năm, một
loại người gầy gò, vàng vọt, yếu đuối. Ha-lê-lu-gia!
Đây chính là sự bảo vệ kỳ diệu
của Chúa Trời trên con cái Ngài để
rồi Ngài có thể dùng nó ở vùng Tây Bắc.
Vâng, Chúa, con muốn Ngài dùng
con như Ngài muốn. Ngài là thợ gốm, con là đất sét. . . Chúa hiểu
tôi hoàn toàn, tôi thuộc
Ngài. Tôi được mua bằng giá đắt, không bao giờ con lại đặt kế hoạch
riêng cho mình nữa. . . . Ngài chỉ
yêu cầu tôi để mình hoàn toàn trong tay
Ngài để được Ngài dùng.
Khi học ở Học Viện Thánh Kinh
Tây Bắc, Mecca Chao tìm được giải đáp bí mật chữ “Mecca” nhờ Mác Ma. Ma nói với anh sứ mạng anh nhận được từ nhiều
năm trước là phải đi về hướng tây giảng tin lành cho người Hồi Giáo, tiếp tục
đi cho đến khi anh đến thành phố Mecca tại Ả Rập Saudi.
Khi Mecca Chao hiểu về khải tượng Đức Chúa Trời ban cho
các lãnh đạo trường để đem tin lành trở lại Giê-ru-sa-lem, anh sửng sốt thấy giống
y sự kêu gọi riêng của anh. Chẳng lạ gì,
anh nhiệt tình ghi danh vào công tác đó và trở nên một trong những nhân công đầu
tiên của Nhóm Truyền Giáo Trở Lại Giê-ru-sa-lem.
Khi Mecca Chao và sáu người tiên phong khác chuẩn bị khởi
hành, Cứu-thế-nhân khắp Trung Hoa hớn hở về chuyến xuất hành sắp tới này. Nhiều lời cầu nguyện dâng lên cho sự thành
công của cuộc mạo hiểm và sự bảo vệ những người tham gia. Giám Mục F. Houghton tóm tắt ảnh hưởng đức
tin của những nhà tiên phong trẻ này:
Hội
thánh Trung Hoa được khích lệ qua sự ra đi của nhóm nhân công Trung Hoa từ Học
Viện Thánh Kinh Tây Bắc. Từ cơ sở hạ tầng
ở Xining họ đặt kế hoạch tiến vào Xinjiang, và từ đó - cuối cùng-họ mang tin
lành xuyên qua Trung Á “trở lại Giê-ru-sa-lem!”
Họ cho thấy những chứng cớ sự kêu gọi Thiên Thượng trong sự từ bỏ mình để
theo ý Ngài và bằng thái độ thực tiễn, nhạy bén qua đó nhắc lại con người của
Hudson Taylor.
Bảy nhà tiên phong đầy đức
tin này đi xa 300 dặm (480 km) hướng tây bắc đến Xining, giờ đây là thành phố
thủ đô của Tỉnh Qinghai. Ở đó, họ gặp Mục
Sư Su, người khuyến khích họ quan tâm đến nhu cầu tâm linh của Thành Phố Xining
và ở lại học tiếng Ả Rập một thời gian.
Nhóm cảm thấy đề nghị này không nói lên ý Chúa cho họ, và mong muốn tiếp
tục tây tiến về Xinjiang không gián đoạn.
Sau một ngày hành trình họ đến Huangyuan. Từ đó Mecca Chao một mình tiếp tục đến Tulan
(nay là Ulan) ở Tỉnh Qinghai, xa 265 dặm (429 km) để dọn đường cho những người
còn lại trong nhóm. Tulan được xem là trạm
cuối văn minh Trung Hoa. Nó cũng là
trung tâm giao dịch qua đó các đoàn lữ hành từ Trung Á di chuyển, nên nó là vị
trí chiến lược cho nhóm bắt đầu học ngôn ngữ nói bởi người Hồi Giáo Trung Á.
Mecca Chao di chuyển những dặm đường này trên lưng ngựa. Anh chịu đau đớn nhiều vì chứng đau thần
kinh, và báo cáo lại rằng ở một thị xã kia nơi anh dừng lại anh “thật thảm hại,
và chỉ có thể đến trường học và tiệm thuốc và nói tin lành chút ít với giáo
viên và chủ tiệm.”
Khó khăn của hành trình xuyên qua những vùng bị trộm cướp
quấy nhiễu này có thể thấy từ lá thư anh viết cho Mác Ma. Sau khi tuyên bố đã đến nơi, Mecca Chao viết,
“Trước hết hãy để tôi nói một lời quan trọng nhất -- bất cứ lý do gì đừng để ai
đi con đường này nếu không có sự hướng dẫn rõ ràng và chắc chắn từ Chúa.” Một số lý do cho tuyên bố này có thể thấy
trong lời tả lại hành trình của anh:
Chỉ
nghĩ về những khó khăn và nguy hiểm của con đường này cũng đủ khiến bạn sởn tóc
gáy. Suốt dọc đường là những vùng cỏ của
người Tây Tạng hoang dã, người Mông Cổ và người Hồi Giáo, sống trong lều. Không quán trọ. Nhiều dãy núi cao trong các đồng vắng rậm cỏ,
những bầy thú dữ, chó Tây Tạng ăn thịt người và rất nhiều băng cướp . . .Dọc đường
nhiều thi thể người chết đói hoặc bị giết.
. . Mỗi đêm tôi nhìn chăm chú nhưng chẳng thấy ai, rồi lặng lẽ đi vào lùm khuất
lối đường. Ở đó tôi lấy khăn gói khỏi ngựa,
và ngủ dưới bầu trời đầy sao. Tôi không
dám gây một tiếng động vì sợ gây quân cướp chú ý. Đôi khi dọc đường tôi nghe tiếng súng nổ,
nhưng tôi vẫn khá yên lòng, và thực ra
tôi không gặp nguy hiểm nào. Người đi đường ai cũng mang súng; vũ khí của tôi
là lời cầu nguyện. . . . Đức Chúa Trời chứng tỏ cho tôi sức mạnh của Ha-lê-lu-gia
để xua đuổi quân cướp và thú dữ, và thỏa đáp mọi khó khăn.
Vài tháng sau những người còn
lại nhóm Trở Lại Giê-ru-sa-lem tiến về hướng tây để gia nhập anh Mecca Chao ở
Tulan. Mọi người đồng ý rằng:
Một
số trong nhóm nên dựng nhà tại Tulan là nơi liên kết cuối cùng giữa hội thánh
nhà Trung Hoa và những cánh đồng truyền giáo mới. Họ cũng quyết định rằng một nhóm nhỏ nhân sự
nên tiến lên trước và mở đường cho những người khác sẽ theo sau, vì một nhóm
đông quá sẽ gây nghi ngờ từ những khu vực họ sẽ đi qua. Trong khi chờ đợi xin phép chính quyền và giấy
tờ du lịch, họ bận rộn tìm hiểu về những tuyến đi lữ hành, những phương thức di
chuyển tiết kiệm nhất và phong tục dân chúng họ phải gặp, cùng lúc họ chia
thành những nhóm truyền giáo rồi đi ra giảng
tin lành.
Biết rằng di chuyển bằng lạc
đà ít tốn kém nhất và ít nguy hiểm hơn nhiều nếu đi bằng xe buýt, họ quyết định
mua lạc đà. Dân địa phương thấy cảnh các
nhà truyền đạo Trung Hoa đang cố mua lạc đà thật buồn cười, và Nhóm bị trì hoãn
hai tuần trong khi họ thương lượng giá cả phải chăng với người Hồi Giáo địa
phương.
Cuối tháng Bảy năm 1947, họ lại khởi hành cuộc hành trình
dài tây tiến, lo lắng phải đến kịp nơi trước khi những tháng hè ngắn ngủi nơi
phần đất thế giới này trôi qua và tuyết giá mùa đông sẽ khiến cuộc hành trình
không thể thực hiện được. Giai đoạn đầu
90 dặm (144 km) xuyên qua những vùng đầm lầy và những dãy núi cao khiến họ mất
sáu ngày. Cuối cùng khi họ đến được biên
giới giáp Xinjiang, họ bị tạm giữ lại bảy ngày chờ giấy thông hành xác thực do
các sĩ quan biên phòng. Cuối cùng giấy
phép được cấp, và nhóm nhỏ các dũng sĩ tin lành băng ngang “vào miệng sư tử.”
Khải tượng Đức Chúa Trời ban cho Mác Ma, Mecca Chao
và những người khác cuối cùng được ứng
nghiệm, và các giáo sĩ Trung Hoa len vào được thế giới Hồi Giáo với ngọn lửa
tin lành bừng cháy lòng họ.
Trong tháng kế tiếp họ di chuyển xuyên qua những đồng
hoang thê lương, ít thấy dấu hiệu tồn tại của con người ngoại trừ một làng nhỏ
đây đó. Nước uống thật là hiếm. Bất cứ khi nào có thể, họ đổ đầy bình nước,
nhưng nhiều ngày trôi qua trước khi có được cơ hội đổ đầy nước lại. Hàng trăm người đi đường đã bỏ mạng trong
vùng này, họ bị cắt cổ và hành lý bị cướp bởi những băng cướp tàn nhẫn. Chẳng lạ gì sa mạc này được biết đến như là
Taklimakan --từ ngữ từ tiếng Uygur tạm dịch là “Lắm kẻ vào nhưng hiếm kẻ
ra.” Tuy nhiên các giáo sĩ tiếp tục tiến
tới, ý thức được sự bảo vệ luôn luôn của Đức Chúa Trời.
Và rồi thảm họa tấn công.
Khải Tượng Bị Trì Hoãn
Một tháng hành trình sa mạc,
đoàn lạc đà của Nhóm Trở Lại Giê-ru-sa-lem bị các sĩ quan nhà nước bắt gặp và
cho họ biết rằng giấy phép di chuyển bị thu hồi vì những biến chuyển chính trị
mới trong vùng. Người ta bảo họ phải trở
về Trung Hoa ngay. Bất kể lời cầu nguyện
và nài xin của họ, các viên chức từ chối thỉnh cầu của họ, nói rằng thật không
an toàn và thật ngu xuẩn cho một nhóm trẻ, hầu hết là phụ nữ, di chuyển xuyên
qua vùng Sa Mạc Taklimakan. “Vì không một
lời thuyết phục nào có thể khiến các viên chức tin rằng công tác của họ không
phải chính trị và rằng họ không sợ nguy hiểm trên đường, nên họ phải thối lui
trở lại Qinghai.”
Sau nhiều cầu nguyện họ quyết định chờ đợi hết mùa đông ở
Qinghai, bận rộn về công việc Thầy mình, sau đó họ sẽ cố gắng vào lại Xinjiang
lần nữa bằng con đường khác. Họ tiếp tục
truyền giáo, thấy được rất nhiều người đến với Chúa.
Chính lúc họ đang đợi chờ cánh cửa mở ra cho Xinjiang thì
Cộng Sản chiếm được quyền lực Trung Hoa.
Chẳng bao lâu bức màn yên lặng bao trùm khắp quốc gia đó. Tất cả giáo sĩ ngoại quốc bị trục xuất khỏi
nước và mọi thông tin liên lạc bị ngăn chặn.
Đối diện với kế hoạch rất hệ thống xóa sạch hội thánh, các tín đồ như
Mác Ma, Mecca Chao và Ho En Cheng phải đi “ngầm.” Khi những tháng bách hại và gian khó trải dài
thành nhiều năm, rồi nhiều năm thành nhiều thập kỷ, khải tượng của Đoàn Trở Lại
Giê-ru-sa-lem bắt đầu phai nhạt. Tất cả
dường như lạc mất. Như con cái Do Thái gần
sát đến Đất Hứa đến nỗi chúng có thể nhìn thấy tận mắt, khải tượng Trở Lại Giê-ru-sa-lem
cuối những năm 1940 và đầu những năm 1950 bị đem trở lại hoang mạc, để chờ đợi
thời gian khi các nhân sự sẽ được trang bị tốt hơn để đảm nhận công tác vĩ đại
đặt trước họ.
Khải Tượng Được Khơi Dậy
Helen Taylor, người có gia đình là công cụ huấn
luyện và khích lệ các nhân sự Trở Lại Giê-ru-sa-lem tại Học Viện Thánh Kinh Tây
Bắc, viết lời cầu nguyện yêu cầu sau đây sau khi Đoàn bị gửi ngược lại Qinghai
năm 1948:
Bạn
sẽ giúp những thanh niên này bằng lời cầu nguyện chứ? Quyền lực ma quỉ, nơi những góc tăm tối địa cầu
là nơi trú ngụ của tàn nhẫn và bạo lực, sẽ không dễ chịu nhường cho ánh sáng
tin lành, nhưng qua cầu nguyện chúng ta sẽ thấy những tường đồng lung lay trước
những thanh niên đầy Thánh Linh này đang tiến lên dưới ngọn cờ Ngài là Đấng
không bao giờ thất trận. Ai sẽ nâng đỡ họ
bằng lời cầu nguyện?
Lời yêu cầu cầu nguyện này được
lập lại hàng ngàn lần xuyên khắp Trung Hoa ngày nay, khi một thế hệ Cứu-thế-nhân
mới được chuẩn bị tốt hơn theo bước và hoàn thành khải tượng đầu tiên của Đoàn
Trở Lại Giê-ru-sa-lem.
Có thể nào Đức Chúa Trời cho phép những nỗ lực ban đầu Trở
Lại Giê-ru-sa-lem bị cản trở vì hội thánh Trung Hoa chưa sẵn sàng tiếp nối sự
kêu gọi lớn lao này không? Khi khải tượng
nổi lên lần đầu, hội thánh Tin Lành ở Trung Hoa đếm số chưa được một triệu người
và khải tượng Trở Lại Giê-ru-sa-lem được gánh vác bởi một ít cá nhân. Thật là phép lạ, hơn 50 năm sau hội thánh
Trung Hoa lên đến 80 đến 100 triệu tín đồ và hàng ngàn vô số tín đồ đáp ứng lại
tiếng gọi Trở Lại Giê-ru-sa-lem. “Vì còn phải chờ đúng thời điểm khải tượng mới
ứng nghiệm, Nó hối hả chạy đến giai đoạn cuối, Nó sẽ thành hiện thực. Nếu nó dường
như chậm trễ, con hãy trông chờ nó, Vì khải tượng chắc chắn sẽ thực hiện, không
nấn ná, chần chờ.” (Ha-ba-cúc 2:3).
Dưới mắt loài người, Đoàn Truyền Giáo Trở Lại
Giê-ru-sa-lem đã thất bại. Nhưng Đức
Chúa Trời biết sự tận hiến của các con trẻ của Ngài, và Ngài không khước từ sự
trong sạch tận hiến của họ với Ngài. Dù
khải tượng có bị chôn vùi một thời gian, nó không chết mất.
Cũng không phải tất cả thành viên ban đầu của đoàn đều chết. Một ít hãy còn sống hôm nay, sống sót hơn nữa
thế kỉ hoạn nạn trong ngọn lửa bách hại.
Ho En Cheng, nay hơn 80 tuổi, hãy còn sống giữa Xinjiang nơi bà đã truyền
giáo cho người Hồi Giáo và tiếp tục chia xẻ khải tượng Trở Lại Giê-ru-sa-lem với
bất cứ Cứu-thế-nhân nào dừng lại nghe.
Đức Chúa Trời đã, luôn là vậy, thành tín với con cái
Ngài.
![http://www.gnxp.com/blog/uploaded_images/chinaProvinces-704548.gif](http://www.gnxp.com/blog/uploaded_images/chinaProvinces-704548.gif)
Các
tỉnh Trung Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét