thevanle1711@yahoo.com
1.
Sương mờ Portland
- Anh không biết tôi, nhưng tôi
biết anh, chúng ta cùng trường và cùng lớp.
Tôi hết
sức ngạc nhiên:
- Thế à? Cảm ơn Chúa!
Anh ấy
tươi cười nói thêm:
- Mình là người hàng xóm nữa. Nhà tôi ở đối diện nhà anh.
Từ ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên khác, tôi nhìn anh ta đáp lại niềm vui bằng ánh mắt.
Chỉ có mấy phút sau là chúng tôi
đến trường. Bước ra khỏi xe hơi, Patrick
và tôi trở nên bạn của nhau từ đó. Chuông
báo hiệu giờ học đã bắt đầu. Buổi sáng
hôm ấy lòng tôi rạo rực một niềm vui khó tả. Đức Chúa Trời quá nhân từ và Ngài biết tôi
đang cần gì. Ngài bước đi với tôi mỗi bước, che chở cho tôi trên mỗi chặng
đường. Làm sao chúng ta có thể hình dung
được ở xứ Mỹ rộn ràng, đầy phức tạp này mà có người xin xe quá giang như tôi?
Không chỉ một lần mà việc này đã xảy ra nhiều lần tương tự. Ngày mới đến thành phố này, tôi bị lạc đường
đôi lần và đã từng đưa tay vẫy xin xe quá giang. Lúc đó, tôi đang ở tại nhà mục sư Lê Tự Cam trên
một ngọn đồi cách xa trường ba mươi phút. Trời nắng chang, bụng đói cồn cào, người mệt
lã nên tôi đến gặp một người phụ nữ đang sửa chữa điện ở cột đèn vừa xong:
-
Cô ơi! Tôi bị lạc
đường, xin cô làm ơn chỉ giúp tôi địa chỉ này có được không ạ?
Người phụ nữ tươi cười cầm lấy
tờ điạ chỉ và bảo tôi lên xe:
-
Được rồi, tôi sẽ
chở anh đến đó.
Ngồi trên xe, lòng tôi mỉm cười
không hiểu nổi tại sao giữa cái xứ sở quá ư rộn ràng và tất bật mà vẫn có những
con người tốt bụng như vậy? Mùi cát bụi
từ những cái găng tay dơ dáy pha lẫn với mùi của “cà-lê, mỏ-lếch” ngổn ngang mà
tôi cứ tưởng chừng như mùi vị của một thứ hương hoa nào đó ngọt ngào và dễ
chịu. Đó là mùi vị tình yêu của Đức Chúa
Trời mà mắt trần của chúng ta không nhìn thấy được.
Chưa được ba phút, chỉ cần quẹo
sang một khúc cong dọc theo phía triền núi, người lái xe mỉm cười nói với tôi:
- Đó kìa, nhà này phải không?
Tôi reo lên:
- Vâng, đúng rồi ạ. Tôi bước xuống xe cảm ơn người phụ nữ rối rít
và không quên nói, “God bless you!” Tôi ngẩng mặt lên trời để cảm ơn Chúa. Ngài
quả thật kỳ diệu, và tôi nhớ đến Lời Chúa:
“Song tôi cứ ở cùng Chúa luôn luôn
“Chúa sẽ dùng sự khuyên dạy mà dẫn dắt tôi…
“Ở trên trời tôi có ai ra trừ Chúa?
“Còn đưới đất tôi chẳng ước ao người nào khác hơn Chúa”
(Thi Thiên 73: 23, 24,
25)
Mùa rét mướt rồi cũng qua đi. Những bông hoa tuyết đã tan biến nhường chỗ
cho nắng Xuân. Qua ô cửa kính, màu tím,
vàng, xanh, đỏ rực rỡ nhưng dịu dàng của những hàng cây thẳng tắp nối tiếp nhau
tận cuối đường. Tôi cảm ơn Chúa vì không
còn phải chịu đựng những cơn rét cóng người, không còn phải mang hai ba lớp vớ
cùng một lúc. Nhìn lên tờ lịch, một dấu chấm
đỏ mà tôi đã chéo ngang để nhắc nhở chính mình về ngày đám cưới con gái đầu của
tôi, Thục Hạnh. Tôi hao hức chờ đợi ngày
ấy sẽ được gặp lại vợ con của mình. Họ đang
ở tận miền nam Cali thành phố San Diego hiền hoà cách xa tôi gần ba giờ bay.
Đã bao nhiều đêm rồi, tôi thỏ thẻ
thưa cùng Chúa:
“Chúa Jê-sus ôi! Sao Ngài đặt để
con nơi này? Con mong được sống gần vợ
và con cái. Con thèm khát cái không khí
ấm áp của gia đình. Con ao ước có được
bữa ăn tối quây quần bên những người thân yêu. Con mong đợi có một bàn tay chăm sóc, an ủi. Con sợ lắm cái cảnh này! Chúa ôi! Con thực sự không đủ sức chống cự với nỗi cô
đơn dai dẳng. Chúa ôi! xin Ngài đáp lời
con.”
Bên ngoài, bóng tối đổ xuống rất
nhanh. Những ánh đèn nhạt nhòa trong lớp
sương mờ đục. Tôi qùy gối từng đêm
chuyện trò cùng Chúa để trao hết tâm sự cho Ngài. Căn nhà trọ, trường đã thuê cho tôi là một
apartment dành cho sinh viên quốc tế. Họ
ở đây là những gia đình có vợ chồng con cái. Còn tôi, trơ trọi một mình. Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi qua. Thật không dễ dàng chút nào trong cuộc sống đơn
điệu và quạnh hiu!
Lục lọi hết đống quần áo của
mình từ Việt Nam mang qua, không có bộ áo quần nào ra hồn để mặc trong ngày
cưới của con gái. Tôi bèn quì gối cầu
nguyện:
“Chúa Jêsus của con ôi! Xin Ngài
cho con một bộ áo quần màu đen với chiếc quần lai lật để mặc trong ngày đám cưới
con gái. Một cái áo vest “phong trần”
vải nỉ, để mặc lên lớp trong những buổi sáng sớm trời lạnh.”
Thế rồi, những ngày sau đó, tôi
nhìn thấy một đống áo quần nằm trong chiếc xe “shopping cart” cạnh chiếc cầu
thang mà tôi lên xuống mỗi ngày. Một buổi sáng trước giờ đến lớp, Patrick hỏi
tôi:
- Áo quần của ai để đây vậy,
Uncle The?
- Tôi đâu có biết, Patrick ạ!
Người bạn Mỹ của tôi nhặt lên từng cái một. Mắt tôi mở to nhìn vào đống áo quần sửng sốt. Tôi nhảy lên trước sự ngạc nhiên của người bạn. Một bộ vest màu đen còn mới toanh với chiếc
quần lai lật, hai áo vest bằng sợi len màu xám.
Tôi mừng rỡ và làm chứng cho người bạn của mình về lời cầu xin Chúa của
tôi trong những ngày qua. Patrick cười
thật tươi và giúp tôi mang hộ những áo quần lên phòng nơi tôi ở. Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện của tôi và
đáp lời. Ngài đã ban cho tôi nhiều hơn những gì tôi đã xin. Những ngày sau đó, tôi chia sẻ một áo vest
cho một người anh em hầu việc Chúa tai Hội thánh Nước Sống. Tôi làm chứng lại cho cậu ấy nghe món quà mà Đức
Chúa Trời đã ban tặng. Lời của Chúa phán
hứa đã ứng nghiệm:
“Ấy vậy, các ngươi chớ lo lắng mà nói
rằng: Chúng ta sẽ ăn gì? uống gì? mặc gì? Vì mọi điều đó, các dân ngoại vẫn
thường tìm, và Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều
đó rồi. Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm
nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi
diều ấy nữa. Vậy chớ lo lắng chi về ngày
mai; vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai. Sự khó nhọc ngày nào đủ cho ngày ấy.”
(Mathiơ 6:31, 32,
33, 34)
Chuyến bay của hãng Alaska từ
Portland đưa tôi về California vào một ngày nắng ấm. Bước ra khỏi phi trường lòng tôi hân hoan được
gặp lại những người thân yêu của mình.
Chính nơi đây, đã bao lần vợ con tôi đưa tiễn. Tôi rất sợ cảnh chia tay và sống mỗi người một
ngã. Tôi cố gạt bỏ đi những liên tưởng đến
ngày ra đi trở lại trường. Giờ đây, tôi
ngẩng mặt lên trời để bày tỏ lòng biết ơn đối với Chúa và tận hưởng niềm hạnh
phúc. Từ trong sâu thẳm của đáy lòng tôi
có được bài học thật quí giá:
“Người nào để trí mình nương dựa nơi
Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ ngươi trong sự bình yên trọn vẹn, vì người nhờ cậy
Ngài. Hãy nhờ cậy Đức Giê-hô-va đời đời,
vì Đức Giê-hô-va, chính Đức Giê-hô-va là vầng đá của các thời đại!”
Lời Chúa văng vẳng bên tai. Tôi cất giấu Lời Ngài vào trái tim mình để vững
bước đi trên những chặng đường gian nan sắp tới.
Sau đám cưới, trở lại Portland lần
này tôi bớt buồn hơn vì có cô con gái thứ nhì tháp tùng. Thục Uyên, tình nguyện đi theo để chăm sóc
cho ba. Có hai cha con, căn hộ rộn ràng
hơn trước. Tôi xin cho Uyên một chỗ làm
thêm trong một tiệm sách của người Việt Nam.
Mỗi chiều, tôi thường ngồi ở cầu
thang mong đợi con gái về. Patrick cho Uyên mượn xe đạp đến trường mỗi ngày và
dùng nó để làm phương tiện đến tiệm sách.
Hai cha con thay phiên nhau lo việc nấu nướng hằng ngày. Chúng tôi ăn uống sơ sài qua bữa, chỉ mong
sao đủ tiền trang trải cho tiền nhà, điện và học phí của tôi là thỏa lòng rồi.
Ngày hôm ấy, sau khi từ trường
trở về chưa kịp ăn uống, hai cha con đã lội bộ đến tận cuối con đường rất xa để
cùng khiêng cái giường cũ người ta vất ngoài đường, đem về cho Uyên nằm. Cái
giường nặng lắm, Uyên đội trên đầu muốn vẹo cổ.
Ngày còn ở Việt Nam, Chúa đã ban cho gia đình chúng tôi mọi thứ. Có thể nói rằng giáo giới như chúng tôi chỉ
thèm thuồng và mơ ước. Nhà lầu bốn cái dùng
làm trường học, cho người nước ngoài thuê, cho em gái của mình, cái còn lại dùng để ở. Bởi sự thương xót của Đức Chúa Trời, chúng tôi
sống trong điều kiện dư thừa và sung túc. Con cái đến trường trong những bộ aó
quần đắt tiền và đi những chiếc xe xinh đẹp, có người đưa kẻ đón. Chúng chưa bao giờ phải vất vả làm lụng hay
lo nghĩ đến tiền bạc. Những nhà hàng nào
sang trọng, chúng tôi không ngần ngại bước vào.
Cuộc sống phước hạnh đó, là do Đức Chúa Trời đem đến.
Ngày nay, sống ở một đất nước phồn
vinh, nhưng chúng tôi là những kẻ nghèo khó.
Gia tài qúy giá nhất đó là niềm tin tuyệt đối vào một Chúa Jê-sus nhơn lành. Không nản lòng, vững chí bước đi bởi vì lòng
chúng tôi tin quyết vào một Đức Chúa Trời đầy quyền năng giàu lòng thương xót. Ngài có chương trình cho chúng tôi. Hoàn toàn tin tưởng như vậy, chúng tôi mạnh mẽ
bước đi trong gian khổ để trưởng thành, chịu thử thách để được rèn luyện và hy
vọng vào một ngày sẽ được Đức Chúa Trời đại dụng.
“Phước cho những kẻ than khóc,
vì sẽ được yên ủi!
“Phước cho những kẻ nhu mì vì sẽ hưởng được đất!
“Phước cho những kẻ đói khát sự công bình vì sẽ được no đủ!
“Phước cho những kẻ hay thương xót vì sẽ được
thương xót!”
(Mathiơ 5:4-7)
2.
Cái Cell-phone
Của Chúa
Buổi sáng hôm ấy, đang khi ngồi
trước máy computer. Tôi đọc và Thục Uyên
đánh máy cho tôi một bài viết cho tờ tạp chí của Hội Thánh Nước Sống. Hội Thánh này do Mục sư Nguyễn Châu Hóa quản
nhiệm. Ông là thầy tôi thời trung học,
người đã đưa tôi vào bên trong nhà thờ Đà Nẵng 1982 để nghe giảng và tiếp nhận
Chúa.
Tôi kể cho Uyên nghe về giấc mơ
kỳ lạ, có vẻ khác thường mà tôi đã trải qua trong đêm. Tôi thấy mình bước đi trong trũng hài cốt ngổn ngang đầy sự chết chóc và kinh hoàng. Tuy là chiêm bao, nhưng không phải bình thường
như bao nhiêu lần khác. Có điều gì đó bí
ẩn. Trong tâm linh tôi như được báo trước
một điều không tốt lành sẽ xảy ra. Con
gái tôi dường như không quan tâm lắm:
- Chiêm bao là chuyện thường mà
ba, hơi sức đâu để ý!
- Không bình thường đâu! Ba cảm thấy có điều gì đó không ổn. Chắc có chuyện không hay xảy ra cho cô Hà.
Hà, là em gái của tôi đã bị bệnh
nan y trước ngày tôi đi Mỹ. Chồng của cô đã qua đời hai năm trước đó. Tôi biết sẽ có một ngày em tôi sẽ về với
Chúa, nhưng vẫn hy vọng ngày đó chưa xảy ra sớm, tôi sẽ trở về kịp trước thời
gian ấy. Đang khi suy nghĩ, bỗng cái
cell-phone reo lên. Từ bên kia đầu dây,
giọng nói của nhà tôi hơi run:
- Hãy bình tĩnh! Cô Hà về với
Chúa cách đây mấy tiếng đồng hồ.
Tim tôi thót lại, nhói đau. Không kiềm chế được, tôi đã khóc to lên thành
tiếng nức nở. Thục Uyên bối rối:
- Ba ơi! Hãy bình tĩnh, đừng làm
con sợ!
Hai cha con cùng qùy xuống tạ ơn
Chúa trong nước mắt ràn rụa; mặc dầu lòng tôi tin chắc em tôi đã ngủ yên trong
Chúa, theo ý muốn tốt đẹp của Ngài. Sau
đó, tôi dùng cái cell-phone của mình để gọi về Việt Nam lo tang lễ cho em. Tôi biết máy của tôi không còn đủ số phút để
gọi, bèn giơ cao chiếc cell-phone lên mà cầu nguyện:
- Chúa Jêsus của con ôi! Xin Ngài cho con nói chuyện với gia đình ở Việt
Nam. Con chỉ còn có mười phút. Chúa ôi! Xin giúp con!
Thục Uyên chẳng hiểu điều gì
đang xảy ra, tưởng rằng tôi đã mất trí. Nên
tôi giải thích:
- Ba có kinh nghiệm này khi ở
Đại-Hàn. Con chờ xem sẽ thấy…
Cầu nguyện xong, tôi bấm máy gọi
các cháu, sau đó liên lạc với các mục sư và một vài anh em thân thiết của Hội
Thánh Đà Nẵng và An Trung, nơi em tôi sinh hoạt. Xong xuôi các cuộc gọi có lẽ kéo dài hơn một
tiếng đồng hồ. Tôi kiểm tra máy, cell-phone
không nhảy thêm phút nào cả. Chương
trình tôi mua chỉ giới hạn sáu trăm phút, trong khi đã gọi năm trăm chín mươi
phút, nghĩa là chỉ còn mười phút trong máy.
Sáng hôm sau, tôi kiểm tra lại máy, nó chỉ nhảy lên đúng sáu trăm phút
và dừng lại ở con số đó. Con gái tôi run
sợ trước quyền năng của Đức Chúa Trời.
Còn tôi, lòng được an ủi vì biết rằng có Đức Chúa Trời đang ở bên mình. Tuy nhiên, tôi không khỏi buồn đau với bao
tiếc nuối. Hình ảnh em gái tôi lúc chia
tay ở phi trường Đà Nẵng, nó không nói một lời nào cả, chỉ ngồi im lặng úp mặt
trong chiếc nón lá và khóc.
Để lại cho anh
Tiễn anh ra phi trường
Nước mắt em ràng rụa
Anh đâu dám nhìn lại
Bởi lòng nghe xót xa
Anh qua đến xứ người
Áo cơm nhiều lận đận
Những buồn vui hờn giận
Anh cố giấu vào trong
Đêm đêm anh cầu nguyện
Để Chúa gìn giữ em
Cho em được sống thêm
Mong ngày anh gặp lại
Trời tháng tư còn lạnh
Mưa rả rích ngoài hiên
Nhận được tin chẳng hiền
Em ra đi bỏ lại…
Sáu đứa con mồ côi
Chúng bỏ trường bỏ lớp
Tất tả miếng cơm ăn
Lòng anh như dao cắt
Em
ra đi bỏ lại
Anh một trời nhớ thương
Tuổi thơ ngày tháng ấy
Giờ đây lệ vấn vương
Ba năm rồi bỏ xứ
Anh lang thang quê người
Mỏi mòn thương chốn cũ
Ngày ấy tiễn anh đi…
California 2005
Cuộc đời của mỗi chúng ta thật
ngắn ngủi, như chiếc bóng nay còn mai mất, như cánh hoa sớm nở tối tàn. Cho nên, điều cần thiết là chúng ta phải khám
phá được mục đích của Đức Chúa Trời đặt để trên đời sống của mình là gì? Xét cho cùng mọi vật trên thế gian này, chẳng
có vật nào là sở hữu lâu dài, ngay cả những gì qúy giá nhất như những người thân
yêu: cha mẹ, anh em, con cái…cũng chẳng thuộc về chúng ta. Đức Chúa Trời ban
cho, rồi cất đi:
“Trong tay Ngài cầm hồn của mọi vật sống, và
hơi thở của cả loài người.”
(Gióp 12:10)
“Hỡi
Đức Giê-hô-va, xin cho tôi biết cuối cùng tôi,
“Và
số các ngày tôi là thể nào;
“Xin
cho tôi biết mình mỏng manh là bao,
“Kìa,
Chúa khiến ngày giờ tôi dài bằng bàn tay
“Và
đời tôi như không không trước mặt Chúa
“Phải
mỗi người dầu đứng vững, chỉ là hư không
“Quả
thật, mỗi người bước đi khác nào như bóng;
“Ai
nấy đều rối động luống công;
“Người
chất chứa của cải, nhưng chẳng biết ai sẽ thâu lấy.”
(Thi Thiên 38:4-6)
3.
Hai con người
khác biệt
Cô Angie Prosser, cố vấn sinh
viên quốc tế của trường Kinh Thánh mà tôi theo học, đi cùng tôi đến văn phòng
sở di trú. Ngay phút đầu tiên, người nữ
nhân viên phỏng vấn dường như không mấy thiện cảm. Cô nhìn tôi, lạnh lùng:
- Anh giơ tay lên thề nói sự thật!
- Tôi không thề được, nhưng tôi nói sự thật vì
tôi là Cơ Đốc nhân.
Chưa trải qua những sự việc này,
hơi bất ngờ nên tôi chỉ nhớ đến lời Chúa dạy, “phải nói phải,
không nói không. Đừng thế thốt!”
Nét mặt cô nhân viên trở nên cau có khó chịu:
- Đã có hàng trăm Cơ Đốc nhân nói dối ở đây. Nếu anh không làm theo, tôi sẽ không hỏi anh
nữa.
Cô Angie không được phép nói gì
cả. Cô ra dấu cho tôi biết phải giơ tay
thề, và tôi đã nghe theo. Sau nhiều
tiếng đồng hồ chất vất với bao câu hỏi hóc búa.
Tôi cảm thấy có điều gì không ổn vì những câu trả lời của tôi lúng túng,
không thuyết phục. Mỗi lúc, cô càng đưa
tôi vào chỗ bế tắc khó có câu trả lời thỏa đáng. Dường như cô chỉ ở vai trò tấn công kẻ yếu
thế. Quang cảnh diễn ra như cảnh sát tra
vấn tội phạm. Tôi thầm nghĩ có lẽ cô đã
thành kiến với nhiều Cơ Đốc nhân đã nói dối.
Mấy tiếng đồng hồ trôi qua, tôi ký vào những trang giấy cô ghi chép lời
khai của tôi, và nghe cô kết luận:
- Bổn phận tôi chỉ làm công việc
vừa xong. Phần quyết định do Giám
Đốc. Trong một tuần, anh sẽ nhận được
thông báo kết quả.
Không cần nhận giấy tờ thông báo gì cả, tôi
cũng đã đoán ra được kết quả ngay lúc đó. Nhưng tôi thản nhiên ra về cùng với cô Prosser
dịu dàng, nhân hậu. Cô an ủi tôi:
- Đừng buồn làm chi anh ạ! Cô ta cũng chỉ làm bổn phận của mình mà
thôi. Về nhà, anh nhớ cầu nguyện nhiều
hơn nữa!
- Cảm ơn Angie! Chúa sẽ không bỏ
con cái của Ngài. Nhìn Angie một lần nữa, tôi cảm nhận một điều gì đó khác biệt
rất xa giữa hai người phụ nữ!
Tôi không buồn lắm, nhưng thật
sự đã lo lắng. Nếu bị từ chối chuyện
phục hồi di trú, tất nhiên gia đình chúng tôi phải trở về Việt Nam. Nguyên nhân câu chuyện này bắt nguồn từ nỗi
nhớ nhà và sự cô đơn của tôi. Tôi đã xin
chuyển về một trường Thần Học Việt Nam ở California để gần gũi gia đình. Có một giáo sư trong Ban Điều Hành tại đó
khích lệ. Nhưng khi trở về mới biết rằng
trường không có thẩm quyền trong việc cấp I.20 cho sinh viên quốc tế. Mục sư có trách nhiệm giúp tôi lại bận về
Việt Nam. Tôi đã gọi điện thoại cho ông
nhiều lần, nhưng không được trả lời. Cuối
cùng, tôi thả trôi cho đến mùa Xuân của năm sau, mới trở lại Portland để học
lại và xin phục hồi di trú.
Một buổi sáng, Prosser đến gặp
tôi buồn bã:
- Cô ấy đã gưỉ email thông báo
là từ chối trường hợp của anh.
- Tại sao lại gửi bằng email?
Tôi cần văn bản chính thức gửi qua bưu điện.
Thế là mấy hôm sau, tôi đã nhận
thư thông báo chính thức. Trong thư có nói rằng, tôi không phải phí thì giờ để
trình bày, giải thích gì khác vì đó là quyết định chính thức và cuối cùng.
Ông hiệu trưởng gặp tôi khuyên
phải chấp hành thông báo của Sở Di Trú. Nếu
không, sẽ ảnh hưởng cho trường đối với sinh viên quốc tế trong tương lai. Biết rằng không còn cách nào khác, nên hai cha
con chúng tôi chuẩn bị rời bỏ Portland, chia tay với trường lớp, những bạn bè
thân yêu và nhất là Hội Thánh Nước Sống nơi chúng tôi đang sinh hoạt.
Patrick luống cuống cả buổi sáng
khi tiễn đưa hai cha con chúng tôi. Mặt
cậu ta xanh mét. Cặp mắt thường ngày đã
ẩn chứa nỗi buồn sâu kín nào đó, bây giờ trông có vẻ thảm não hơn. Patrick yêu thương cha con chúng tôi trong
một thứ tình yêu không giống sự đổi chác như thế gian này, và chúng tôi cũng
vậy. Nhưng, giờ đây tất cả mọi thứ đẹp
đẽ kia cũng sắp sửa kết thúc; những ngày tháng được sống gần bên nhau sẽ không
còn nữa. Tôi tin chắc rằng, trong mỗi
chúng tôi kỷ niệm sẽ còn sống mãi.
Chuyến bay mệt mỏi, đầy ưu tư
đưa chúng tôi rời Portland; thành phố sương mù vẫn còn đọng lại trong lòng hai
cha con chúng tôi bao nhớ thương và nuối tiếc…
Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời, cho dù
phải đối diện trong muôn nghìn khó khăn, có lúc tưởng chừng như hoàn toàn tuyệt
vọng, nhưng kỳ thật lòng chúng tôi vẫn bình an. Chúng tôi tin cậy Đức Chúa
Trời và chờ đợi sự giải cứu của Ngài.
“Tôi nhịn nhục trông đợi Đức Giê-hô-va,
“Ngài nghiêng qua nghe tiếng kêu cầu của tôi
“Ngài cũng đem tôi lên khỏi hầm gớm ghê, khỏi vũng bùn lấm
“Ngài đặt chân tôi trên hòn đá
“Và làm cho bước tôi vững bền.”
(Thi Thiên 40:1,2)
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEif18iJzYIL2Utmi_yYUnbb_L0lYgsnLKxMOY6q9yXLGcYV2-aiKhv3Qsr1vb7l6tN31QaqgErNeB2ZfQTefdHAsmhWvmcryjpSkUBwDCY0l9ePOPkl85HwuYfkAarrQnMM1U7_yE95TqKW/s1600/statue-of-liberty-national-monument-new-york-usa-outdoor-image-83337527.jpg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét