Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 15 tháng 6, 2012

Trở Lại Giê-ru-sa-lem (chuong 4 trong 12)


                                                                     4

                                 Phong Trào Tâm Linh Tây Bắc   

            Thật vậy, Ta bảo các con: Hạt giống lúa mì gieo xuống đất không chết đi thì hạt giống vẫn hoàn hạt giống, còn nếu chết đi thì mới kết quả thêm nhiều!   Ai quý chuộng mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều bỏ mạng sống mình ở đời nầy sẽ giữ lại được trong cõi sống vĩnh phúc!
                                                              - Giăng 12:24-25


Đoàn Trở Lại Giê-ru-sa-lem, gặp nhau tại Học Viện Thánh Kinh Tây Bắc ở Tỉnh Shaanxi, không phải là tín đồ Trung Hoa duy nhất Đức Chúa Trời kêu gọi làm mục vụ cho người dân Hồi Giáo phía tây.  Họ cũng không phải là đầu tiên.  Danh dự này có lẽ thuộc nhóm mang tên Gia Đình Giê-xu được thành lập những năm 1920.

            Gia Đình Giê-xu được thành lập năm 1921 tại Tỉnh Shandong do ông Jing Dianying.  Các thành viên tin rằng phải bán hết gia sản và phân phát của cải cho các thành viên khác trong gia đình.  Khẩu hiệu năm từ ngữ của nhóm tóm tắt lòng tận hiến của họ với Đấng Christ và khuôn mẫu sống thanh đạm của họ: “Hy sinh, từ bỏ, nghèo khó, chịu khổ, chết.” 

            Gia Đình Giê-xu nhắm mục tiêu vào các thị xã và làng mạc, giảng tin lành khi họ đi từ nơi này sang nơi khác.  Mẫu mực sống cộng đồng và tình yêu Cứu-thế-nhân sâu đậm của họ làm ngạc nhiên người bàng quan.  Nếp sống đó thu hút nhiều người đang tìm câu trả lời cho cuộc sống cũng như cho những ai vô gia cư, thiếu thốn, và bị khinh bỉ.  Nhiều người mù và ăn xin gia nhập Gia Đình Giê-xu và tìm được đời sống vĩnh phúc trong Đấng Christ.

            Khi họ tiếp tục phát triển, Gia Đình Giê-xu chịu khổ vì những gian khó khủng khiếp.  Thường thường khi cộng đồng lưu động này đến thị xã mới nào thì tất cả dân cư ngụ kéo ra đánh đập, chửi bới và hạ nhục họ.  Tuy nhiên, sự chống đối không làm nhụt chí họ, và khi họ giảng tin lành luôn luôn có một ít người sẵn lòng bỏ tất cả thứ họ có để đi theo Chúa Giê-xu.

            Gia Đình Giê-xu là những người đầu tiên có khải tượng Trở Lại Giê-ru-sa-lem.  Nhân sự của họ gánh thúng thức ăn và đồ cần thiết khi đi bộ băng ngang Trung Hoa.  Vào cuối những năm 1940 có 20 ngàn tín đồ Trung Hoa ghi danh vào hơn 100 nhóm Gia Đình Giê-xu khác nhau, khiến họ có thể đem tin lành đến được nhiều vùng khác nhau.  Một số tín đồ đi đến Manchuria, số khác đến Mông Cổ Lục Địa, số khác đến miền nam Trung Hoa.  Tất cả nhóm này tự xem họ là phần tử  khải tượng Trở Lại Giê-ru-sa-lem.  Tất cả họ luôn bằng cầu nguyện và bằng hành động ủng hộ đoàn truyền giáo chính đang đi bộ về phía tây vào những quốc gia Hồi Giáo, quyết định thành lập vương quốc Chúa Trời trên khắp lãnh thổ dọc đường đi.

            Nhưng dường như sau một thời gian Gia Đình Giê-xu lạc mất hướng.  Tất cả quyền hành tập trung vào một lãnh đạo, Jing Dianying.  Kết quả là khải tượng Trở Lại Giê-ru-sa-lem trở nên quá quy về trung ương và không được chia xẻ với nhiều tín đồ bình thường khác.  Rạn nứt nảy sinh và một nhóm mới, được gọi là Phong Trào Tâm Linh Tây Bắc xuất hiện.  Những tín đồ Trung Hoa ngày nay giải thích việc chia rẽ này nhiều cách khác nhau.  Một số nói đây là điều xấu, trong khi người khác tin rằng Chúa ở đàng sau nó vì khải tượng đã bị lúng túng nên sự bắt đầu tươi mới cần được thực hiện. 

            Dù chuyện gì đi nữa, vào cuối những thập niên 1930 Đức Chúa Trời đã dấy lên một thế hệ tín đồ mới sẵn sàng từ bỏ mọi sự trong vâng phục để nhìn thấy sự kêu gọi của Chúa phải được hoàn thành.  Họ nói, “Chúng ta hãy trổi dậy trên chân và đem thập tự giá đến những quốc gia chưa biết Đức Chúa Trời.  Chúng ta hãy tiến lên trong danh Giê-xu, từ bỏ mọi sự mình có, ngay cả sự sống chúng ta nếu cần, để rồi danh Giê-xu sẽ được vinh hiển giữa vòng dân ngoại.”  Đa số những lãnh đạo đầu tiên của nhóm này đều ra từ Tỉnh Shandong, gồm cả người thành lập, Zhang Guquan.

            Chiến thuật của Phong Trào Tâm Linh Tây Bắc đơn giản chỉ là giảng tin lành, tin rằng Chúa Giê-xu sắp trở lại.  Họ không cố gắng lập hội thánh địa phương, chỉ tập trung truyền giáo và chinh phục linh hồn.  Tuy thế Đức Chúa Trời trong sự thương xót của Ngài vẫn tạo ra nhiều tín đồ và vẫn còn lắm trái mãi tới ngày nay.  Họ chinh phục linh hồn cho Đấng Christ giữa vòng nhiều nhóm sắc tộc gồm cả người Hồi Giáo Uygurs, Hui và Kazaks.

            Bạn cần hiểu rằng đây không phải  đạo quân tâm linh lớn lao diễn hành ngang quốc gia đó.  Ban lãnh đạo chỉ gồm bốn hoặc năm cá nhân, cộng thêm ít chục nhân sự khác.  Nhưng dù với con số nhỏ Phong Trào Tâm Linh Tây Bắc thật hiệu quả vì khải tượng của họ được tập trung.  Họ như đầu mũi tên bén, trong khi tân tín hữu họ để lại sau là dây cung.

            Ngoài Đoàn Truyền Giáo Trở Lại Giê-ru-sa-lem và Phong Trào Tâm Linh Tây Bắc, còn có nhiều bước đầu nhỏ hơn nữa từ những nhóm hội thánh Trung Hoa khác nhau vào những năm 1940.  Một số đến những khu vực Tây Tạng, số khác đến với dân thiểu số tây nam Trung Hoa, lại có số khác vào những vùng Hồi Giáo.  Nhưng dù xuất xứ và lãnh vực hoạt động khác nhau, tất cả những nhóm này tự xem mình là một phần của khải tượng lớn hơn đó để đem tin lành trở lại Giê-ru-sa-lem.

            Qua bài viết năm 1949, Phyllis Thompson, một nhân sự đặt cơ sở ở Chongqing cùng với đoàn Truyền Giáo Trung Hoa Lục Địa, nhận xét như sau:

            Điều gây ấn tượng nhất cho tôi đó là sự nổi lên lạ lùng vô số những nhóm  
            Cứu-thế-nhân Trung Hoa     tiến mạnh lên trong đức tin, đem tin lành về hướng      
           tây.  Tôi biết ít nhất là năm nhóm khác nhau, gần như không biết lẫn nhau, rời bỏ quê nhà      mình ở hướng đông Trung Hoa rồi tiến lên trước về hướng tây, thực sự bỏ lại mọi thứ sau họ.  Một số ở Xikang (ngày nay là tây Sichuan), một số ở Gansu, một số ở ngay tỉnh lớn Xinjiang.  Dường như đây là phong trào của Chúa Thánh Linh không cưỡng lại được.  Điều nổi bật là họ không liên lạc nhau, và trong hầu hết trường hợp dường như họ không biết chút gì về nhau cả.  Tuy nhiên tất cả đều tin chắc rằng Chúa đang sai họ tiến về  biên giới hướng tây để giảng tin lành, và họ ra đi với ý thức mãnh liệt tính khẩn cấp vì thời gian ngắn ngủi, và  vì ngày trở lại gần kề của Chúa.



Simon Zao

Chúng ta sẽ nói về một người tuy hãy còn tuổi 30 được chỉ định làm lãnh đạo giảng dạy và truyền giáo trong Phong Trào Tâm Linh Tây Bắc.

            Simon Zao (tên chính là Zhang Haizhen) xuất thân từ Shenyang ở Tỉnh Liaoning hướng đông bắc Trung Hoa.  Cha anh chết khi Simon còn là cậu bé, và mẹ anh buộc phải một mình nuôi bầy con.  Bà rất đẹp.  Nhiều lần trưởng làng đến nhà họ và cố dụ bà ngoại tình với hắn.  Hắn mua cho bà nhiều quà đắt giá nhưng càng lúc càng giận dữ vì bà kháng cự lợi dụng của hắn.  Cuối cùng, mệt mỏi vì bà từ chối, hắn cưỡng hiếp bà. 

            Khi cậu bé Simon phát giác chuyện xảy ra cho mẹ yêu dấu của mình, cậu bé nổi giận.  Cậu nói với mẹ khi lớn lên cậu sẽ làm lãnh đạo quận để cậu có thể xử gã đó trước công lý vì đã xúc phạm mẹ cậu.  Mẹ cậu trả lời, “Không ích gì.  Những lãnh đạo quận cũng chỉ suy đồi như gã lãnh đạo làng đó mà thôi.”

            “Vậy con sẽ làm lớn hơn những lãnh đạo quận!” Simon kêu lên.

            “Không ích gì.  Những lãnh đạo tỉnh cũn chỉ suy đồi như những lãnh đạo quận mà thôi,” mẹ cậu trả lời.

            “Vậy con sẽ làm lãnh đạo cao hơn lãnh đạo tỉnh!”

            “Nữa, con à, vô ích.  Hoàng đế cũng y vậy thôi.”

            Simon lòng tan vỡ và giận dữ rồi hỏi mẹ, “Vậy ai quyền lực hơn hoàng đế?  Ở đâu mình có thể đến đòi công lý?”

            Mẹ cậu trả lời, “Chỉ có Trời có thể ban công lý, con của mẹ ơi.”

            “Vậy con sẽ trở thành trời!”  cậu bé sốt sắng kết luận.

            Vết thương lòng Simon không được lành.  Trong tuổi niên thiếu cậu đeo đuổi sự nghiệp viết văn và dùng kỹ năng của mình phơi bày tội ác gã trưởng làng trên báo chí địa phương.  Dù vậy cơn giận của cậu vẫn cháy bừng.

            Nhiều năm sau đó, Simon Zao gặp Đức Chúa Trời.  Anh thấy mình không còn ghét và tìm cách trả thù gã đàn ông đã xâm phạm mẹ anh.  Mục đích đời anh đã thay đổi, và giờ đây tất cả những gì anh muốn làm là giảng tin lành và khiến vinh hiển Đức Chúa Trời được người ta biết đến.

            Trong buổi nhóm cầu nguyện ở Shenyang, lần đầu tiên Chúa ban cho Simon một khải tượng.  Trời đông rất lạnh.  Ngoài nhà nơi các tín đồ cầu nguyện, đống tuyết cao đến nỗi các cửa bị kẹt và họ không thể ra về.  Khi ba tín đồ đang cầu nguyện trên bản đồ Trung Hoa, Chúa tập trung suy nghĩ của họ vào tỉnh tây bắc Xinjiang.  Họ đặt tay trên phần đất Trung Hoa đó và cầu nguyện với thẩm quyền lớn.  Trước ngày đó, họ chưa bao giờ xem xét nghiêm trọng mục vụ vùng tây bắc xa xôi hẻo lánh.

            Sau này, ở Nanjing, anh Simon gặp các Cứu-thế-nhân khác, họ cũng nhận giống hệt khải tượng từ Đức Chúa Trời đem tin lành đến Xinjiang và những vùng xa hơn.  Trong số đó có một thiếu nữ tên Mu Lingqu, sau này là vợ anh.  Gia đình cô trước đây là những viên chức lãnh đạo nhà nước.

            Ba toán bắt đầu cùng gia nhập vào mùa gặt.  Nhóm thứ nhất đến Xinjiang, và theo sau là nhóm của Simon Zao.  Sau đó nhóm thứ ba, dưới sự dẫn dắt của Zhu Congen từ Zibo thuộc Tỉnh Shandong, bộ hành đến Xinjiang sau khi ló dạng Cộng Sản tại Trung Hoa năm 1949.

            Nhóm hướng dẫn bởi Simon Zao và vợ anh rời Nanjing di chuyển đến Xinjiang qua ngã đường Tỉnh Shaanxi.  Hầu hết lối đi bằng đường bộ, nhưng một số vùng như sa mạc nơi không thể đi bộ, thế nên họ di chuyển  bằng ngựa, lạc đà, và đôi khi bằng xe, lúc nào cũng hướng về biên giới tây bắc giáp Liên Xô.  Trên đường họ chinh phục nhiều binh lính đến với đức tin Đấng Christ, vì thời gian đó nhiều rắc rối trong lịch sử Trung Hoa với nội chiến và hỗn loạn nội bộ tràn lan.

            Simon Zao và khoảng 20 đến 30 thành viên nhóm của anh đến Kashgar vào cuối năm 1948.  Nhưng đây chính là lúc quân đội Cộng Sản kiểm soát Xinjiang và niêm phong tất cả biên giới.  Tất cả lãnh đạo Phong Trào Tâm Linh Tây Bắc đều bị bắt và bị buộc tội phản quốc vì họ cố rời khỏi Trung Hoa.  Vào những ngày đó không thể kiếm được giấy thông hành để vào vùng Trung Á Liên Xô, nên lối duy nhất đến đó là lẻn qua biên giới.

            Mọi thành viên Phong Trào Tâm Linh Tây Bắc bị bỏ tù, thời gian tù khác nhau.  Năm lãnh đạo bị kết án cực nặng – Simon Zao là người duy nhất ra khỏi tù còn sống sót.  Vợ anh mang bầu khi bị bắt, nhưng chẳng bao lâu sau chị bị sẩy thai.  Sau đó chị chết trong tù nữ giới.

            Trong những tuần và tháng đầu tiên trong trại tù khổ sai Kashgar, lính canh cố làm cho Simon chối bỏ đức tin, nhưng họ sớm khám phá ra điều này không kết quả.  Họ ra lịnh anh không được cầu nguyện và đánh đập anh mỗi lần họ thấy anh cầu nguyện.  Anh không bao giờ ngưng cầu nguyện, nhưng học cách cầu nguyện trong bí mật khi không ai theo dõi.

            Sau một thời gian các viên chức cai tù nghĩ rằng anh đã thay đổi vì họ không thấy anh cầu nguyện nữa, nên họ ra lịnh cựu văn sĩ đó viết cho một cột báo tù, ca ngợi quyền lực biến đổi của hệ thống Cộng Sản.

            Anh bằng lòng viết bài báo đó, các viên chức cai tù hài lòng lắm về điều này.  Tuy nhiên, khi họ thấy những gì anh viết, họ liền nổi giận và nhận ra mình bị lừa.  Bài báo anh viết có bài thơ ngắn về vẻ đẹp của Chúa Giê-xu và có hình họa thập tự giá.

            Những cai tù đánh đập anh bằng cách nện băng ghế gỗ nặng lên lưng anh và đá anh không thương tiếc.  Các viên chức cai tù trừng phạt anh bằng cách tăng thêm hạn tù nhiều năm nữa và tống anh lao động trong mỏ than, nơi hầu hết tù nhân chết trong vòng sáu tháng vì tình trạng vô nhân đạo và lao động gãy lưng.  Mỗi ngày anh bị đòi hỏi phải làm đủ nhiều tấn than, một công việc không thể cho loài người lại đem giao cho một người nhỏ con mảnh khảnh.  Anh không chỉ phải đào lấy than, mà còn phải mang nó ra khỏi mỏ đựng trong thúng buộc vào lưng.

            Tù nhân bị bắt lao động 14 tiếng một ngày, bảy ngày một tuần.  Thức ăn thì hiếm hoi và thiu ôi.  Vào mùa hè, thì nhiệt độ nóng oi; vào mùa đông khắc nghiệt, thì nhiệt độ dưới độ đông đá.  Simon Zao trở thành phép lạ sống động về quyền năng gìn giữ của Đức Chúa Trời.  Hàng trăm bạn đồng tù đến làm ở mỏ than này, đa số thể chất mạnh khoẻ hơn Simon nhiều, chỉ để chết trong vòng vài tháng sau khi đến.

            Trong nhiều năm Simon khôn khéo làm chứng cho nhiều bạn tù, và một số tin.  Có một ít mục sư Cứu-thế-nhân khác trong trại tù khổ sai với anh, nhưng chính quyền nhốt họ khác phòng tù và khác chỗ lao động, khiến Simon chỉ có giây phút ngắn ngủi tiếp xúc với họ.  Trong suốt những năm biệt giam đó, Simon không được phép nhận thăm nuôi.  Anh biết từ lòng rằng không còn ai nhớ đến anh nữa ở thị xã biên giới Hồi Giáo xa xôi hẻo lánh này, hàng ngàn dặm cách xa quê nhà anh.

            Ngoại trừ sự hiện diện thành tín của Chúa của anh, là Đấng đã hứa không bao giờ lìa anh bỏ anh, Simon cảm thấy hoàn toàn cô đơn và bị bỏ rơi.  Nhớ lại quê nhà anh ở tỉnh Liaoning ngược hướng bên kia xứ sở, những thân nhân của anh không biết anh chết hay sống, rồi vì nhiều năm yên lặng rồi kéo dài đến nhiều thập kỉ, ít người còn nghĩ về hoặc cầu nguyện cho anh. 

            Khải tượng Trở Lại Giê-ru-sa-lem thật sự tiêu mất.  Hạt giống đã chết.

            Simon về sau nhớ lại thể nào, trong những năm khốn khổ đó, anh cứ nhìn lên những vì sao và nhớ đến khải tượng Đức Chúa Trời đã ban cho anh và những bạn đồng công để đi bộ đem tin lành suốt đường trở lại Giê-ru-sa-lem.  Anh đã nghe tin người vợ yêu dấu và đứa con chưa kịp sanh của mình đã chết, nhưng không biết chuyện gì đã xảy ra cho các bạn đồng công của anh.  Thế nên những năm đầu tù đày, khi lính canh và các bạn tù không để ý, Simon thường cầu nguyện, “Chúa ôi, con sẽ không bao giờ có thể trở lại Giê-ru-sa-lem, nhưng con cầu xin Ngài sẽ dấy lên thế hệ trẻ tín đồ Trung Hoa là những người sẽ hoàn thành khải tượng này.”  Rồi thời gian trôi qua Simon Zao mất đi ngọn lửa và sự hăng hái về khải tượng Trở Lại Giê-ru-sa-lem, dù anh không bao giờ chối bỏ Chúa Giê-xu là Đấng đã cho anh khải tượng đó.

            Sau nhiều năm thống khổ trong mỏ than Simon gần như đã chết, nên các viên chức cai tù chuyển anh sang cơ xưởng hóa học ở khu vực khác thuộc Xinjang.  Dù đây là xưởng thương mại, nhưng họ sử dụng tù nhân làm nguồn lao động chính.

            Công việc mới này đỡ hơn hầm mỏ một chút, vì hàng ngày anh phải tiếp xúc hơi độc và hóa chất độc.  Mỗi đêm sau công việc anh trở về tù, nơi các cú đánh đập tiếp diễn.  Nhưng, bây giờ hầu hết những cú đánh đập ở trong tay bạn đồng tù.  Lính cai tù dựng kế dùng tù nhân làm vơi nhẹ bực dọc với nhau, thưởng cho ai báo cáo hành vi người khác.  Là một Cứu-thế-nhân bị ghét vì các cán bộ đã không thể khuất phục được, Simon Zao là đối tượng dễ dàng đặc biệt cho kẻ tàn bạo.

            Tuy nhiên Đức Chúa Trời không quên anh.  Một trường hợp xảy ra giữa mùa đông khắc nghiệt, các bạn tù từ chối để Simon ở chung phòng được sưởi ấm.  Họ lột quần áo anh trừ ra quần lót rồi bắt anh đứng ngoài trời tuyết.  Khi đẩy anh ra khỏi cửa họ còn chọc ghẹo, nói rằng, “Mầy tin vào Đức Chúa Trời của mầy, vậy sao mầy không cầu nguyện ổng và xin ổng giữ ấm cho mầy đi!”

            Ngay những phút đầu gió lạnh xé vào tận da thịt anh như lưỡi dao lam.  Simon kêu la với Chúa xin thương xót – và điều lạ lùng xảy ra.  Anh cảm thấy sức ấm lạ thường, quá ấm đến nỗi chẳng bao lâu anh toát mồ hôi khắp người như thể anh đang nghỉ ngơi thoải mái trong phòng tắm hơi!  Tuyết xung quanh anh bắt đầu tan chảy vì hơi ấm toả ra từ người anh.  Anh gọi to mấy bạn tù bên trong và khi họ nhìn ra cửa sổ họ thật không thể tin được mắt mình.  Hơi nóng bốc lên từ người anh!

            Dù những phép lạ dị thường như thế thật không bình thường, nhưng anh vẫn chịu đau đớn khủng khiếp.  Hàng trăm lần anh bị đánh đập không thương xót.  Đa số tù nhân là người sắc tộc Uygurs, là dân Hồi Giáo đa số ở Xinjiang.  Các tù nhân Uygur đặc biệt tàn nhẫn với Simon vì anh là người Trung Hoa “ăn thịt heo” rất bị ghét.  Sau này anh tả lại dân Uygurs đánh đập anh “giống như cách họ vây xung quanh và nện con dê trước khi họ giết.”

            Có một lần anh bị đánh đập và đá quá nặng đến nỗi sọ anh bị nứt ra và anh ngã xuống đất bất tỉnh.  Trong cơn bất tỉnh, anh được khải tượng qua đó Chúa dịu dàng nói với anh, “Con của Ta, Ta luôn ở với con.  Ta sẽ không bao giờ rời con hoặc bỏ rơi con.”  Tỉnh lại ngay lúc đó, anh không hiểu bao lâu anh bị ngất xỉu.  Anh thấy choáng váng và không rõ mình đang ở đâu.  Anh sờ vào đầu chỗ sọ bị đập và thấy vết thương đã được chữa lành bởi phép lạ, dù máu khô hãy còn đó. 

            Simon Zao bị đánh đập 30 năm trong số 40 năm anh phải ở trong tù đày.  Chỉ trong mười năm cuối cùng – khi anh trở thành người cao niên ở tuổi hơn 60 – thì anh mới không phải chịu bị hành hạ thể xác nữa.  

            Trong những năm dài đàng sau những song tù, anh viết bài thơ sau:

            Tôi muốn trải qua đau đớn và thống khổ
            Của Chúa Giê-xu trên thập hình
            Ngài chịu mũi giáo bên hông, Ngài chịu nỗi đau lòng mình
            Tôi thà cảm thấy đau đớn gông cùm trên chân
            Còn hơn chạy xuyên Ai Cập bằng chiến xa Pha-ra-ôn.

Ngày kia năm 1988, trưởng cai tù ra lệnh Simon đến văn phòng chính.  Anh đi dọc hành lang lòng hơi lo lắng, tự hỏi mình đã làm gì khiến phải gặp thêm rắc rối.  Bản án anh phải chịu đến năm 1993 mới mãn, chỉ còn năm năm nữa thôi, và anh hy vọng không có chuyện gì xảy ra khiến anh phải chịu thêm án phạt nữa.

            Trưởng cai tù mời Simon ngồi rồi vừa sờ soạng đống hồ sơ dầy vừa nhồi thuốc lá.  Cuối cùng ông nói, “Nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đã quyết định thương xót ông và tỏ lòng khoan hồng cho những tội ác ông đã vi phạm chống lại tổ quốc ta.  Tôi được thẩm quyền thả ông sớm hơn năm năm.  Ông được tự do đi về.”

            Người của Đức Chúa Trời lê chân trở lại phòng tù ngạc nhiên và lặng sửng.  Ông không bao giờ mong đợi ngày này sẽ đến.

            Khi ông bị bắt lần đầu tiên năm 1948, Trung Hoa là nước cộng hoà trong vòng kìm nội chiến.  Ông đang độ sức sống sung sức nhất, người đầy năng lực tuổi đầu 30.  Người vợ trẻ đẹp của ông đang mang thai đứa con đầu lòng.  Đức Chúa Trời đã kêu gọi họ đem tin lành trở lại Giê-ru-sa-lem và dù những nguy hiểm và nhiều thách thức, đời ông thật xứng đáng và hứng khởi.  Giờ đây, bốn mươi năm sau, ông đã hơn 70 tuổi, với tóc bạc và râu trắng.

            Simon bước ra khỏi những cổng tù để vào một Trung Hoa hoàn toàn khác hẳn cái mà ông đã từng biết.  Ông đã lỡ mất toàn bộ triều đại Mao Trạch Đông, ngay cả cái chết của Mao năm 1976.  Ông đã lỡ mất cuộc Cách Mạng Văn Hóa từ 1966 đến 1976, khi hàng triệu người bị giết bởi Hồng Vệ Quân cuồng tín.  Ông bây giờ là người cao niên còn chút sức lực.  Thân thể ông bị tàn phá từ nhiều thập kỉ vì bị đánh đập, tra tấn và lao động nặng, và gương mặt ông in hằn những nếp nhăn sâu lộ ra cuộc vật lộn bốn thập kỉ trong hang sư tử.

            Không có ai cả Trung Hoa này đang chờ đợi ông.  Mọi người mà ông biết bốn mươi năm trước đây đều đã chết hoặc đã quên ông.  Ông không biết nơi nào để đến và người nào để gặp.  Ông không biết mình phải nên làm gì đây.  Không tiền cũng không bạn, thậm chí ông cũng không khả năng đón xe buýt vào phố.

            Trại tù khổ sai đã là một phần đời ông quá lâu đến nỗi ông quyết định dựng một cái chòi tạm bợ ngay bên ngoài cổng tù.  Khi nằm trong chòi ẩm thấp lạnh lẽo này, tâm trí ông đôi khi thơ thẩn về cuộc đời trai trẻ và sự kêu gọi Chúa đã một lần ban cho ông.  Ông đã cố trung tín vâng phục Chúa, nhưng điều đó không thực hiện được.  Ông mong mình sẽ chết sớm, vì ông biết thiên đàng là nơi tốt đẹp hơn nhiều và những đau đớn cùng rối loạn ông đã trải qua quá lâu sẽ được vứt bỏ vĩnh viễn.

            Ông ở đó nhiều tháng, yên lặng ngoại trừ những lời cầu nguyện tạ ơn hàng ngày của ông dâng lên Vua Muôn Vua và Chúa Muôn Chúa, là Đấng giữ lời hứa của Ngài và không bao giờ bỏ rơi ông suốt trong những năm tháng đau đớn đó.  Không có Chúa Giê-xu Cứu Thế, Simon biết ông chắc đã chết hàng ngàn cái chết.  Đấng Cứu Thế hằng sống đã giữ ông sống và tỉnh táo, và Ngài đã giúp ông không bao giờ chối bỏ đức tin nơi Đức Chúa Trời.  Simon biết rằng dù một người có phải cô đơn đến đâu trong thế giới này, Chúa Giê-xu sẽ luôn luôn hiện diện ở đó như “một người bạn thân gần gủi hơn anh em ruột.” (Châm Ngôn 18:24) 

            Sau một thời gian, các Cứu-thế-nhân địa phương ở Kashgar biết về Simon Zao và nghe lời làm chứng của ông.  Tỏ lòng tôn kính họ đem vị thánh lão thức ăn và Kinh Thánh và giúp ông bất cứ điều gì họ có thể làm được.

            Tin tức lan truyền từ hội thánh này tới hội thánh kia ở Xinjiang về Simon, và chẳng bao lâu tin tức đó lan tới những vùng khác ở Trung Hoa rằng người của phép lạ đã được quyền năng Đức Chúa Trời gìn giữ trong suốt bốn mươi năm tù đày vì cớ tin lành.

                                     
                                               *    *    *

Bắt đầu những năm cuối thập niên 1960, Đức Chúa Trời đổ Chúa Thánh Linh lên Tỉnh Henan và hàng triệu người kinh nghiệm được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời ở đó.  Henan trở nên nổi tiếng là trung tâm phục hưng ở Trung Hoa và được đặt tên húy là “Ga-li-lê của Trung Hoa” – nơi các môn đồ Chúa Giê-xu xuất phát.

            Nhiều lãnh đạo hội thánh tư gia ở Henan đã nghe về các nhân sự đầu tiên Trở Lại Giê-ru-sa-lem vào những năm 1940.  Hiểu biết của chúng tôi về những chi tiết về những nhân sự đó khá thô sơ, nhưng khi chúng tôi nghe được một trong những người lãnh đạo cao nhất giờ đây ra khỏi tù, chúng tôi rất nôn nóng gặp ông và học hỏi từ ông.

            Một số bạn đồng công chúng tôi đang làm mục vụ ở Kashgar.  Họ đến gặp Simon Zao và họ gửi nhiều thư báo cáo chúng tôi về câu chuyện của ông.  Các thành viên trong hội thánh chúng tôi ở Kashgar yêu thương ông như chính cha họ và vui sướng được kết bạn thân với ông.  Ông đã bị tước mất thông công với các tín hữu khác trong bốn mươi năm, nhưng giờ đây Chúa đã cho ông những đứa con trai và con gái thuộc linh tôn kính ông rất sâu đậm.  Các phụ nữ từ hội thánh nấu ăn cho ông, giặt quần áo cho ông, và giúp ông bất cứ gì họ có thể làm.  Họ tiếp đãi ông như thể họ là thiên sứ của Đức Chúa Trời.

            Cuối cùng một nhóm lãnh đạo hội thánh tư gia đón xe lửa và xe buýt trải suốt đường băng ngang Trung Hoa vì chúng tôi cảm thấy chính chúng tôi cần phải gặp Simon Zao.  Sau hơn một tuần di chuyển, chúng tôi đến Kashgar và gặp tôi tớ đau khổ và khiêm nhường của Chúa.

            Lúc đó chúng tôi xuất bản một tạp chí mà chúng tôi dùng để khích lệ tín đồ hội thánh tư gia.  Simon Zao từ chối không viết bất cứ bài nào hoặc làm chứng điều gì.  Chúng tôi cố gắng cho ông biết rằng thế hệ hiện tại của tín hữu Trung Hoa cần học biết thể nào Chúa đã gìn giữ ông suốt quá nhiều năm thống khổ.  Ông luôn từ chối để nghị của chúng tôi, nói rằng, “Tôi không muốn bị để ý.”

            Suốt những năm 1950, 1960, 1970 và 1980, không có bàn luận tích cực nào về việc đem tin lành Trở Lại Giê-ru-sa-lem.  Những thời kỳ quá đen tối cho tín đồ Trung Hoa đến nỗi nó lấy hết tất cả năng lực và lời cầu nguyện của chúng tôi chỉ đủ để tồn tại những năm tháng đó với đức tin không thay đổi.  Nhưng đầu những năm 1990, Chúa cho chúng tôi biết thật quan trọng đem Simon Zao đến Tỉnh Henan để chia xẻ lời chứng của ông cho các Cứu-thế-nhân hội thánh tư gia để gây nguồn hứng khởi cho họ tiếp tục mang lấy khải tượng Đức Chúa Trời đã ban cho ông gần năm mươi năm trước.

            Chúng tôi gửi Deborah Xu (chị của Peter Xu, là một trong những tác giả cuốn sách này) đi xe lửa và xe buýt suốt đường tới Kashgar khẩn thiết cầu nguyện thuyết phục ông hãy suy nghĩ lại.  Mỗi ngày lúc cô đi rồi chúng tôi đều cầu nguyện xin Chúa ban cho cô thành công.  Lúc đầu, Simon Zao còn ngần ngại.  Ông nói, “Chúa đã gọi tôi đi hướng tây đến Giê-ru-sa-lem và tại đây, Xinjiang, ít nữa tôi cũng đang trên đường.  Tại sao tôi lại phải di chuyển trở lại hướng đông và như thế lại đi xa khỏi Giê-ru-sa-lem?  Sao cô không để tôi yên thân chết ở Kashagar này?”

            Deborah là người chị em rất kiên trì trong Chúa!  Cô không chịu nhận câu trả lời không nên cứ đi theo Bác Simon bất cứ chỗ nào ông đi, cứ tiếp tục với lòng yêu thương nài xin ông nên trở lại Henan.  Cô bảo đảm với ông rằng chúng tôi không có ý định đem ông ra khỏi tuyến đầu trận chiến.  Chúng tôi chỉ muốn đem ông trở lại nơi hàng ngàn tân binh cần được huấn luyện và trang bị nếu công tác Trở Lại Giê-ru-sa-lem phải được nhen lại trong sự sống hội thánh Trung Hoa.  Deborah giải thích rằng khải tượng của ông có thể được nhân chục lần hơn và hàng ngàn tân binh sẽ được sai phái chiến đấu những tuyến đầu nếu ông chỉ đến và chia xẻ câu chuyện của ông.

            Cuối cùng Simon Zao nhận thấy người chị em này không chịu để ông yên cho đến khi ông đồng ý trở lại Tỉnh Henan với cô.  Ông bắt đầu ý thức rằng chắc phải là Chúa mới khiến người phụ nữ này bướng bỉnh kiên trì đến vậy!  Khi ông cầu nguyện về việc trở lại đông Trung Hoa, Chúa xác quyết rằng ông nên đi bằng cách cho ông lời Kinh Thánh thật riêng tư và đem lại chữa lành sau tất cả những năm thống khổ và cô đơn mà ông đã chịu:

"Hỡi phụ nữ hiếm hoi, Không sinh nở, hãy hát lên; Hỡi người chưa từng đau đớn sinh nở Hãy cất tiếng ca hát và reo hò. Vì con cái của phụ nữ bị ruồng bỏ Sẽ nhiều hơn con cái của phụ nữ có chồng," CHÚA phán như vậy. "Hãy nới rộng chỗ trại ngươi ở; Căng các tấm bạt của trại ngươi ra, Đừng giữ lại. Hãy giăng dây cho dài, Đóng cọc cho chắc.  Vì ngươi sẽ tràn ra bên phải lẫn bên trái; Dòng dõi ngươi sẽ chiếm hữu các nước Và định cư trong các thành bỏ hoang.  Đừng sợ; vì ngươi sẽ không bị xấu hổ, Chớ lo; vì ngươi sẽ không bị nhục nhã; Vì ngươi sẽ quên sự xấu hổ của thời thanh xuân Và không còn nhớ nữa nỗi nhục nhã của thời góa bụa.”   (Ê-sai 54:1-5)

Chúng tôi không có bất cứ món tiền nào để mua cho ông giường ngủ thậm chí ghế ngồi trong suốt hành trình dài bốn ngày bằng xe lửa xuyên ngang Trung Hoa.  Ông chỉ tìm được một chỗ ngồi trên sàn và cuộn mình trong giấy báo.

            Khi ông làm mục vụ cho các hội thánh chúng tôi ở Henan, thật đầy quyền năng và ngọn lửa được cháy lên trong lòng mọi người nghe ông.  Nhiều nước mắt tuôn chảy và hàng ngàn tín đồ được rờ chạm và được nhận khải tượng về công tác truyền giáo.  Ngay cả hình dáng thể chất của Simon Zao cũng thật đặt biệt và thêm phần vào mục vụ của ông.  Ông trông giống vị thánh thời cổ xưa, với râu bạc dài và tóc trắng phơ.

            Đối với nhiều vị lãnh đạo hội thánh tư gia, khải tượng Trở Lại Giê-ru-sa-lem trở nên thật rõ ràng và Đức Chúa Trời đã đặt vào chúng tôi một gánh nặng để thấy khải tượng này được ứng nghiệm.


                                                *     *     *

Simon Zao cuối cùng về với Chúa vào ngày 7 tháng 12, 2001.  Ông chết  ở Pingdingshan, Tỉnh Henan, giữa vòng các Cứu-thế-nhân yêu mến ông.

            Cuộc đời ông thật nổi bật.  Như Giô-sép, Simon bắt đầu với một khải tượng từ Chúa nhưng trước khi nó được ứng nghiệm thì ông bị tù đày và khải tượng của ông bị chôn vào lòng đất chết đi khi ông lặng lẽ thống khổ vì những hình phạt bất công trong bốn mươi năm, không được ai nhớ đến ngoại trừ Đức Chúa Trời.

            Tuy thế  đó không phải là phần cuối chuyện!  Đối với ông thì không biết được, nhưng Chúa đã gieo trồng cùng khải tượng này vào lòng nhiều Cứu-thế-nhân Trung Hoa.  Sau khi ông được thả khỏi tù, Đức Chúa Trời đầy ân sủng đã cho ông thêm mười ba năm nữa trong mục vụ.

            Các Cứu-thế-nhân hội thánh tư gia đối đãi Simon Zao với sự kính trọng tột độ trong Chúa và tôn kính ông như một hoàng tử trong nhà Chúa.  Trước khi chết, ông nhận ra rằng “tặng phẩm Chúa ban và tiếng Chúa gọi không bao giở hủy bỏ được.” (Rô-ma 11:29) 

            Simon Zao học biết rằng Chúa luôn hoàn thành những gì Ngài khởi làm và luôn luôn thành tín hoàn tất những lời hứa của Ngài.  

(Con tiep)

Không có nhận xét nào: