Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 17 tháng 3, 2012

Tiếng Gọi (tt)

by Pastor The Le Van
Ước ao được nghe những lời phê bình góp ý chân tình của qúy ông bà anh chị em trong Chúa, để tôi có dịp "edit" lại trước khi cho cuốn sách ra mắt chính thức. Mọi đóng góp của qúy vị và các bạn là những phần thưởng qúy giá và quan trọng đối với tôi. Tôi muốn cuốn sách được đem lại kết quả cho công việc Chúa và xin dâng sự vinh hiển lên cho Ngài. A men!


Đức Chúa Trời ở Việt Nam

( tiếp theo)



6. Cơn điên

“Kẻ nào phạm tội ngoại tình với người đàn bà, tất vô tâm vô trí: Ai làm như vậy khiến cho lình hồn mình hư mất. Người ấy sẽ bị thương tích và khinh bỉ, sự sỉ nhục người ấy chẳng bôi mất đi.”

(Châm ngôn 6: 32, 33)

Vốn là học trò ban văn chương trước 1975, nên tôi có niềm say mê với văn học nghệ thuật. Cho nên một tối nọ cố chen mua cho được một cái vé để xem kịch Lưu Quang Vũ. Đêm ấy, đoàn kịch Hà Nội diễn vở Hoàng Tử Pơ-rim và nàng Si-ta. Những bi thương và kịch tính của sân khấu làm cảm động lòng người. Những oan trái khổ đau của một kiếp người bị ruồng rẫy, sống trong tủi hận bị ức hiếp bởi kẻ cai trị ngu dốt, bù nhìn và, cuối cùng người phụ nữ kia đi tìm cái chết. Vở kịch ẩn chứa nỗi thống khổ của con người sống giữa cái xã hội đầy bất công, những oan khiên chống chất cho đến nỗi loài khỉ không muốn làm người.

Ánh đèn mờ chập chùng trong tiếng nhạc du dương và ai oán; đã đưa tôi vào một thế giới khác; thoát ly khỏi thực tại và thả hồn bay theo ảo mộng. Tôi cố xô đuổi hình ảnh của nàng Si-ta ra khỏi trí óc của mình. Nhưng với bản ngã yếu đuối, tôi không thể nào kềm chế nổi sự cám dỗ chết người trước những rung động. Con người cũ trong tôi bỗng sống dậy mãnh liệt. Thế rồi, tôi bắt đầu rong ruỗi chạy theo những điều lòng mình ưa muốn, gạt bỏ qua một bên những lời khuyên dạy của Đức Chúa Trời. Cái mặc cảm tội lỗi vì không nghe tiếng Chúa đã khiến tôi xa cách Ngài, không dám đối mặt trong sự cầu nguyện. Tôi như con chim đau đớn vì thương tích từ những mũi tên của loài qủy dữ. Nhưng có một điều thật lạ lùng đó là tình yêu của Cứu Chúa Jêsus. Ngài đã đổ huyết vô tội của mình để cứu lấy những đứa con tội lỗi. Cho nên Ngài vẫn cứ xót thương cho dù tôi chẳng xứng đáng gì với ân điển cao vời đó. Ngài đã đánh thức tôi dậy sau giấc ngủ bất an đầy rối loạn!

Tôi trở về nhà vào một đêm rất khuya, say khướt. Nhà đóng cổng, tôi trèo rào bước vô. Nhìn trên bàn, mâm cơm vẫn còn nguyên vẹn. Hai cái chén cùng với đĩa rau muống luộc; một quả trứng gà cạnh chén nước mắm. Nhà tôi đã ngủ say,tay gát trên trán. Con tôi, hai đứa bình yên trong lòng mẹ. Nhìn cái hình ảnh đáng yêu ấy làm cho lòng tôi xúc động. Một sự ăn ăn trào lên và tôi vội qùy xuống xưng tội cùng Chúa. Sáng hôm sau, tôi đến nhà thờ lúc năm giờ để cầu xin với Chúa; hứa từ bỏ những tháng ngày lung lạc và quyết tâm sống theo những lời khuyên dạy của Ngài.

Trước ngày rời Việt Nam, một người anh trong Chúa có tặng tôi bài thơ mà anh ấy nói rằng tác giả là một người Y-pha-nho. Bài thơ dài được dịch sang tiếng Việt, trong đó có đoạn:

Nếu trước kia trên nẻo đường phiêu đãng

Ai hỏi tôi sẽ dừng lại nơi đâu?

Tôi trả lời ngay, chuyện đó còn lâu

Vì đường giang hồ đưa về vô tận

Bãi vi lau hay những bờ cát trắng

Chỉ là nơi thuyền tạm ghé mà thôi

Vầng trăng khuya không buộc chặt hồn tôi

Tình du tử cắt rời niềm lưu luyến…

Tôi ra đi thầm lặng và đơn côi

Mái tóc đẹp nhòa dần theo kỷ niệm

Những cặp mắt ngỡ ngàng nơi góc biển

Những bàn tay trắng mịn cuối chân trời

Khi hoàng hôn vừa cạn chén ly bôi

Lời âu yếm khác chi lời gió thoảng

Tình thắm đẹp khi rơi vào quên lãng

Thì hương thơm mang sẵn vị chua cay

Người giang hồ là hình ảnh mây bay

Phiêu du mãi trên nền trời bát ngát

Đôi khi tươi xanh và trong mát

Đôi khi bão táp buồn âm u

Mùa đông về lạnh lão tiếp sầu thu

Mùa hạ ấm sau mùa xuân rộn rã

Mây vẫn bay qua miền quen hay xứ lạ

Trong ngày quang hay những tối không trăng

Là giang hồ ôm giấc mộng vây quanh

Có ai nói sẽ dừng chân lữ thứ

Nhưng thuở ấy nay trở thành quá khứ

Mỏi giang hồ tôi dừng lại nơi đây

Bài thơ dài cắt đứt những câu say

Để viết tiếp bằng những câu thành thật

Đời mưa gió lạnh vai ướt ngực

Tình ngã nghiêng đôi mắt nhức đau thương

Mối tình sầu đem gửi gió mười phương

Trả sương lạnh cho ánh đèn hải cảng

Có những lúc gục đầu trong đêm tửu quán

Có những giờ say chén rượu cháy vành môi

Trả tôi về những ngày cũ đơn côi

Tôi đành sống êm hòa và thuận phục

Giản dị lắm tôi trở về hạnh phúc

Của người chồng biết yêu vợ thương con

Con của tôi cặp mắt to tròn

Cười nũng nịu niềm vui hồn hậu quá

Vợ của tôi như hạt sương trong nếp lá

Đẹp long lanh mỗi lúc ngước nhìn tôi

Hạnh phúc bình thường nhưng rất xinh tươi

Tôi đón nhận với tình yêu đơn giản

Nhưng có lúc vì quá ư phẳng lặng

Tôi chợt thương chợt nhớ thuở xưa kia…

Tình thuở ấy giờ đây thôi đã hết

Nên buồn thương đôi lúc đến trong mơ

Nhưng chỉ thóang qua nhè nhẹ hững hờ

Như nét vẽ như vần thơ rất mỏng

Khi con tôi đưa bàn tay bé bỏng

Sẽ hỏi tôi và gọi khẽ, “ba ơi”

Thì mùa xuân lại đến với làn môi

Tóc lại đẹp với bình minh tươi trẻ

Tiếng chim ca lại bừng lên vui vẻ

Gió trên cành rạo rực bướm tình si

Khi vợ tôi với sắc đẹp nhu mì

Cười âu yếm hỏi anh, “sao chưa ngủ?”

Thì mùa xuân tan dần trong sương phủ

Trời thương yêu tinh tú sáng long lanh

Tôi bảo nàng hãy cầm lấy tay anh

Cho hạnh phúc đượm thêm màu ân ái…

Cảm tạ Đức Chúa Trời đã cho tôi cắt đứt với quá khứ của một thanh niên lãng tử, bằng lòng sống thuận phục trong tình yêu mà Ngài đã ban tặng. Không có gì qúy hơn được sống bên những người thân thích và ruột thịt của mình. Trong kinh nghiệm này, bài học từ sách Châm Ngôn vô cùng ý nghĩa:

“Hãy uống nước hồ con chứa, và nước chảy trong giếng con

“Các nguồn của nó há tràn ra ngoài đường, và các suối của con tuôn nơi phố chợ…Con hãy lấy làm vui thích nơi vợ con cưới buổi đang-thi

“Như nai cái đáng thương và hoàng dương có duyên tốt.

“Nguyện nương-long nàng làm thỏa lòng con luôn luôn

“Và ái tình nàng khiến con say mê mãi mãi (Châm ngôn 5: 15-19)

“Kẻ nào phạm tội ngoại tình với người đàn bà, tất vô tâm vô trí: Ai làm như vậy khiến cho lình hồn mình hư mất. Người ấy sẽ bị thương tích và khinh bỉ, sự sỉ nhục người ấy chẳng bôi mất đi.”

(Châm ngôn 6: 32, 33)

7. Quyền năng của sự chữa lành

Tháng 9- 1987

Trong căn nhà mới của chúng tôi mà Chúa vừa cho mua được, nằm sâu trong con hẻm của khu chợ Mới bùn lầy tanh tưởi. Tôi nằm trên giường đã hơn ba ngày rên rỉ vì đau đớn. Một tai nạn đã xảy ra trên đường đến nhà thờ vào một sáng Chúa nhật. Xe Honda của tôi bị ngã xuống vì một chiếc xe xích lô húc vào. Vợ con tôi cùng ngã xuống đất nhưng bình yên. Chỉ riêng tôi không đứng dậy được.

Theo lời người thầy thuốc chuyên khoa bảo rằng lớp mỡ bên hông bị giãn ra, và vài đốt xương bị thương tổn. Tôi đã đến một lương y gia truyền để mua thuốc của ông thầy Vàng về uống và xoa bóp, nhưng vẫn không khỏi. Bác sĩ Đại đã mèn xương, nhưng không kết quả. Thế rồi, tôi vẫn nằm bất động trên giường thở than cùng Chúa, kiểm điểm lại cuộc sống của bản thân mình tìm xem những điều gì chưa đẹp lòng Chúa.

Rồi một ngày nọ, có ba người phụ nữ đến thăm. Hai bà là vợ của mục sư Mã Phúc Minh, mục sư Nguyễn Tợi cùng bác Việt Hương. Đến giờ cơm trưa, gia đình chúng tôi mời qúy bà dùng bữa. Trước khi ăn, qúy bà cùng cầu nguyện cho tôi. Bác Việt Hương cầu xin với Chúa giọng thiết tha và ngọt ngào:

“Lạy Chúa là Cha của chúng con. Xin Cha thương xót thầy Văn. Cảm ơn Cha vì điều đó đã xảy ra để làm vinh hiển danh Cha. Con tin rằng giờ này đây Chúa sẽ chữa lành cho thầy. ‘Mọi việc hiệp lại lám ích cho công việc của Đức Chúa Trời.’ Thầy Văn có vấp phạm điều gì xin Cha tha thứ và chữa lành cho…”

Lời cầu nguyện vừa chấm dứt, một phép lạ cũng vừa xảy ra. Như có tia điện chạy vào tòan thân chạm mạnh vào chỗ đau; làm tan biến sự nhức nhối trong khoảnh khắc. Tôi nghe như có bàn tay êm dịu đỡ tôi ngồi dậy. Tôi vui mừng trong nỗi ngạc nhiên và sợ hãi. Tôi thử bước chân xuống đất, rồi đi qua đi lại, nhảy lên. Ồ lạ lùng, tôi hoàn toàn bình thường vì Chúa đã chữa lành vết thương. Mọi người trố mắt nhìn tôi không ngớt lời cảm tạ ngợi khen Chúa. Ngay sau giờ phút đó, cái bàn thờ ông bà trên gác lửng của ba mẹ tôi được dọn dẹp. Chúa nhật của tuần lễ đó, cà gia đình tôi đến nhà thờ tiếp nhận Chúa Jêsus.

Từ biến cố được chữa lành, trong đời sống tôi có rất nhiều thay đổi. Tôi gần gũi Chúa hơn. Những thắc mắc, hồ nghi về những câu chuyện trong Kinh Thánh dần dần biến mất. Tôi hoàn toàn tin vào quyền năng của sự chữa lành của Chúa. Tôi nhớ lại nhiều câu chuyện được chữa lành trong quyển sách “Thượng Đế Còn Làm Phép Lạ” của bà Kathryn Kuhlman, và tin rằng Chúa Jêsus hôm qua ngày nay và mãi mãi không bao giờ thay đổi.

Cũng từ đó được sự quan tâm giúp đỡ của nhiều tôi tớ Chúa, tôi tập tễnh đi nhiều nơi để làm chứng nhân cho Đức Chúa Trời.

“Nhưng người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương, bởi sự sửa phạt người chịu, chúng ta được bình an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bịnh.”

(Ê-sai 53: 5)

8. Chúa mở đường

Trên đường từ nhà thờ Quế Sơn trở về Đà Nẵng, lòng tôi buồn man mác không hiểu tại sao Chúa vẫn để chúng tôi còn nhiều lận đận về cơm áo? Tôi vẫn phải những công việc mà tôi không ưa thích. Tôi làm nghề chụp ảnh công viên với những tháng năm buồn tủi. Rồi tham gia vào những chuyện làm ăn mua bán phiêu lưu. Tôi rất ngại tiếp xúc những con người mánh mung gian trá. Tôi cố nài xin Chúa mở đường cho tôi một công việc làm ăn lương thiện và phù hợp với năng khiếu của mình. Ngày tháng vẫn cứ trôi qua trong nỗi khắc khoải đợi chờ…

Gia đình tôi đông người, tám nhân khẩu. Cha mẹ già yếu, công việc làm ăn của tôi thất thường và lây lất. Vợ tôi ngoài việc đi dạy ở trường, về nhà còn phải tất bật với cái quày buôn bán nước mắm. Mỗi sáng lúc 5 giờ, tôi và đứa con gái đầu năm tuổi, hai cha con đèo nhau trên xe đạp ra chợ Cồn mua các loại trái cây như cốc, ổi, mía, xoài về bán thêm cho trẻ con trong xóm. Bé Hạnh đi với tôi cho có bạn và trông coi xe đạp. Có lần nó thèm ăn chôm chôm mà tôi không đủ tiền nên dạy cho nó bài hát: “Muốn chôm chôm mà không có tiền, không có tiền thì không có chôm chôm.” Nó nhanh nhẹn hát theo và trả lời: “Thế thì ba mua cho con củ khoai cũng được.” Tôi ngồi xuống ôm con gái vào lòng; xoa trên cái đầu bé bỏng của nó. Những giọt nước mắt âm thầm chảy xuống. Tình cảnh của chúng tôi bây giờ sống thật đơn sơ và nghèo khó. Mỗi tháng chỉ mong có được đủ củi đun bếp và gạo đầy thùng thì đã yên lòng.

Như bao nhiêu gia đình khác, chúng tôi cùng chung hoàn cảnh sau những đổi thay của đất nước. Mỗi người quần quật làm việc ngày đêm mà vẫn không đủ sống. Chính vì những khó khăn cực kỳ vây hãm, khiến cho con cái của Chúa lắm khi cũng hành động theo ý riêng của mình. Không còn đợi chờ Chúa nữa, tôi quyết định “tự mở đường!” Aó quần đã bỏ vào chiếc xách tay, chuẩn bị về quê để tham gia vào giới buôn trầm. Đang ngồi ăn sáng, bỗng chiếc xe Hon-da đỗ xịch trước nhà. Một người đàn ông chậm rãi bước vào. Tôi nhận ra đó là một giáo sư ngoại ngữ, đến mời tôi hợp tác dạy tiếng Anh. Tôi nhận lời mà không cần suy nghĩ. Chúng tôi tạ ơn Đức Chúa Trời vì Ngài đã thương xót, không muốn tôi dính líu vào những chuyện làm ăn phiêu lưu và liều lĩnh!

Lòng tôi hoan hỉ được trở về với cái nghề yêu thích. Tôi say mê trong những giờ lên lớp. Tháng ngày qua đi êm đẹp trong niềm vui rộn ràng của một nhà giáo. Tôi luôn cầu nguyện biết ơn Chúa trước những giờ lên bục. Học trò tôi già trẻ, lớn bé nhiều hạng tuổi khác nhau, xuất thân đủ mọi thành phần. Nhưng giữa họ và tôi không hề có khoản cách; bởi vì trong tôi được mặc lấy một thứ tình yêu mà người thế gian không thể có.

Ngài sẽ nghe lời cầu nguyện của kẻ khốn cùng

“Chẳng khinh dễ lời câu xin của họ.”

(Thi Thiên 102: 17)

9. Hy vọng đời sau

Ngày 30-4-1990

Bệnh suy tim của mẹ tôi mỗi ngày thêm trầm trọng. Bác sĩ đã bó tay khuyên cho bà nghỉ ngơi và ăn uống bổ dưỡng. Chúng tôi cầu nguyện thiết tha xin Chúa cho bà sống thêm vài năm nữa. Suốt cuộc đời mẹ tôi chưa có một ngày thong thả. Tôi ước ao mẹ tôi được thỏa lòng vui hưởng hạnh phúc bên con cháu. Nhưng có lẽ đã qúa muộn màng vì mẹ tôi sẽ không còn được sống bao lâu nữa. Theo lời chẩn đoán của bác sĩ bệnh viện Đa Khoa, thì mẹ của tôi đang ở thời kỳ cuối cùng của bệnh suy tim già, bội nhiễm phổi. Chúng tôi kiên nhẫn cầu nguyện và đưa mẹ tôi đến gặp bác sĩ Quyền, nổi tiếng về chuyên khoa tim. Ông nhận lời theo dõi và điều trị. Kết cuộc Chúa cho mẹ tôi sống thêm được ba năm. Vào những ngày cuối Xuân năm 1990, sau cơn đau khủng khiếp, mẹ tôi rên rỉ và ngất đi. Vừa từ trường trở về, vợ chồng chúng tôi qùy gối cầu nguyện: “Lạy Chúa, mẹ của chúng con đau đớn quá! Xin Chúa chữa lành cho mẹ con. Nếu đẹp ý Ngài thì cho mẹ con được về cùng Chúa một cách bình an.” Ngay tức khắc mẹ tôi hết rên rỉ và ngủ thiếp. Chúa khiến cho tôi cũng ngủ quên đi. Trời chưa sáng, tôi giật mình thức giấc, chạy qua phòng mẹ, sờ tay lên trán của bà, lạnh ngắt. Tôi đặt tay lên ngực, chỉ còn chút hơi ấm thoi thóp. Tôi vội vàng đánh thức cả nhà dậy, vây quanh giường mẹ, chúng tôi quỳ xuống thưa với Chúa trong những giọt nước mắt:

“Chúa ôi! Thế là Ngài đã cất mẹ của chúng con về với Ngài… Tạ ơn Chúa…” Tôi không thể nói gì thêm hơn được nữa. Một nỗi xót xa vô tận nghẹn cứng ở cổ. Dẫu biết rằng, linh hồn mẹ tôi chắc sẽ về cùng Chúa, nhưng sao trong tôi cảm thấy hụt hẫng trước sự ra đi này.

Còn nỗi buồn nào hơn khi chia tay với người thân yêu nhất của mình? Bản thân tôi bị dày vò vì bao nhiêu ân hận, không cảm thấy thỏa lòng trong sự chăm sóc khi mẹ tôi còn sống. Nhà tôi nghèo cùng chung trong nỗi bất hạnh của đất nước sau chiến tranh. Mẹ tôi chưa một lần được đi nhà hàng sang trọng, chưa được tắm vòi sen, cũng chưa có được những bộ áo quần xinh đẹp. Thế rồi, mẹ tôi ra đi mà chưa được nhìn ngắm đứa cháu nội trai mà lòng bà ao ước. Nó đang còn ở trong bụng!

Mẹ thường bảo con ôi, đừng gian dối

Thương người ta đừng đổi dạ thay lòng

Với tháng năm khắc khoải chờ mong

Cô dâu trẻ đưá cháu đầu kháu khỉnh

Giống hệt như cha dáng to tròn trĩnh

Để mỗi chiều mẹ ru hát ầu ơ…”

Trong những ngày này, gia đình chúng tôi sống trong sự chật vật. Mới bắt đầu đi dạy lại lương ba đồng ba cọc chẳng đủ thiếu vào đâu. Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài đã chăm sóc lo liệu mọi sự. Từ Hội Thánh, các đầy tớ Chúa và anh em trong cùng đức tin, mỗi người một tay lo cho tang lễ vinh hiển danh Chúa.

Những ngày đầu vắng mẹ, nhà chúng tôi quạnh quẽ lắm. Ba tôi trở nên ít nói. Hai đứa con gái của chúng tôi buồn xo. Còn tôi đêm đêm từ trường trở về lên gác nằm khóc. Nhìn những kỷ vật: cái nồi đồng sứt quai, đôi dép tôi mới mua cho mẹ, cái giá tráng bánh, cái áo len bạt màu… lòng tôi nhói đau và cầu xin Chúa ban cho niềm an ủi. Cả cái quá khứ dài đằng đẵng mẹ tôi gánh chịu bào nhiêu là gian khổ ở một miền quê hẻo lánh. Chúng tôi được lớn lên trong mái nhà tranh xiêu vẹo ngô khoai qua ngày. Mẹ tôi phải thức dậy sớm trước khi gà gáy sáng để xay bột, tráng bánh, và nuôi chúng tôi khôn lớn. Bao nhiêu giải nắng dầm mưa mẹ tôi oằn vai gánh chịu. Thương con mùa đông không có áo, bà lặn lội đi bộ nửa ngày đường để vay tiền mua cho tôi chiếc áo lạnh. Những ngày vào đại học, mẹ tôi bán hết cả đàn heo mà vẫn không đủ mua nổi cái vé máy bay. Khi lấy vợ, mẹ tôi lại tiếp tục nuôi heo và hy vọng đủ sắm cau trầu để cưới vợ cho con. Nào ngờ bầy heo bị dịch chết, bà buồn bã khóc mấy ngày đêm. Từ nhà quê về thánh phố cưới vợ, tôi chở mẹ tôi trên chiếc xe đạp cọc cạch, lại đèo thêm buồng cau nặng trĩu. Đi một đoạn thì phải dừng lại vì mông của bà sưng lên không chịu nổi! Đám cưới con trai, không có nhẫn vàng cho cô dâu, không tiệc tùng ăn uống. Đêm tân hôn, mẹ tôi muốn sống cùng con trai để nhìn thấy hạnh phúc của nó, nhưng bà không thể ở lại, vì tôi “bị”gửi rể. Phút chia tay trở về quê hai mẹ con cùng khóc. Đêm tân hôn của chúng tôi không có gì cả ngoài một bài thơ:

Hạnh phúc về sao tôi lại khóc

Bạn bè ôi, tôi muốn ôm hôn

Những tấm lòng phong trong giấy kín

Những bàn tay siết chặt đáy hồn

Cánh cửa khép bạn bè đi mất hút

Chỉ còn đây ly tách ngổn ngang

Tôi cúi mặt gục đầu trên nệm mới

Rượu tân hôn pha lẫn chút men tàn

Cánh cửa khép mọi người đi mất hút

Những bà con cha mẹ bỏ tôi về

Gần ba mươi tôi làm thân gửi rể

Trong lòng buồn như mới tập làm dâu

Bên người vợ thơm mùi gối mới

Đêm tân hôn thức trắng làm thơ

Bao chờ đợi vẫn nguyên còn trinh tiết

Mà tình yêu chẳng có bến bờ!

Đà Nẵng 17/5/ 1980

Giờ này đây, tôi tin rằng, mẹ tôi đã ngủ yên trong vòng tay của Chúa. Bà được giải phóng khỏi những tháng năm nhọc nhằn lao khổ của trần thế. Linh hồn bà được yên nghỉ nơi cõi vĩnh hằng. Vào một ngày tương lai khi Chúa tái lâm chúng tôi sẽ được gặp lại nhau.

“Phước cho người chết là chết trong Chúa! Đức Thánh Linh phán: Phải vì những người ấy nghỉ ngơi khỏi sự khó nhọc, và việc làm mình theo sau.”

Không có nhận xét nào: