Ước ao được nghe những lời
phê bình góp ý chân tình của qúy ông bà anh chị em trong Chúa, để tôi có dịp
"edit" lại trước khi cho cuốn sách ra mắt chính thức. Mọi đóng góp
của qúy vị và các bạn là những phần thưởng qúy giá và quan trọng đối với tôi.
Tôi muốn cuốn sách được đem lại kết quả cho công việc Chúa và xin dâng sự vinh
hiển lên cho Ngài. A men!
Đức Chúa Trời ở Việt Nam
( tiếp theo)
6. Cơn điên
“Kẻ nào phạm tội ngoại tình
với người đàn bà, tất vô tâm vô trí: Ai làm như vậy khiến cho lình hồn mình hư
mất. Người ấy sẽ bị thương tích và khinh bỉ, sự sỉ nhục người ấy chẳng bôi mất
đi.”
(Châm ngôn 6: 32, 33)
Vốn là học trò ban văn
chương trước 1975, nên tôi có niềm say mê với văn học nghệ thuật. Cho nên một
tối nọ cố chen mua cho được một cái vé để xem kịch Lưu Quang Vũ. Đêm ấy, đoàn
kịch Hà Nội diễn vở Hoàng Tử Pơ-rim và nàng Si-ta. Những bi thương và kịch tính
của sân khấu làm cảm động lòng người. Những oan trái khổ đau của một kiếp người
bị ruồng rẫy, sống trong tủi hận bị ức hiếp bởi kẻ cai trị ngu dốt, bù nhìn và,
cuối cùng người phụ nữ kia đi tìm cái chết. Vở kịch ẩn chứa nỗi thống khổ của
con người sống giữa cái xã hội đầy bất công, những oan khiên chống chất cho đến
nỗi loài khỉ không muốn làm người.
Ánh đèn mờ chập chùng trong
tiếng nhạc du dương và ai oán; đã đưa tôi vào một thế giới khác; thoát ly khỏi
thực tại và thả hồn bay theo ảo mộng. Tôi cố xô đuổi hình ảnh của nàng Si-ta ra
khỏi trí óc của mình. Nhưng với bản ngã yếu đuối, tôi không thể nào kềm chế nổi
sự cám dỗ chết người trước những rung động. Con người cũ trong tôi bỗng sống
dậy mãnh liệt. Thế rồi, tôi bắt đầu rong ruỗi chạy theo những điều lòng mình ưa
muốn, gạt bỏ qua một bên những lời khuyên dạy của Đức Chúa Trời. Cái mặc cảm
tội lỗi vì không nghe tiếng Chúa đã khiến tôi xa cách Ngài, không dám đối mặt
trong sự cầu nguyện. Tôi như con chim đau đớn vì thương tích từ những mũi tên
của loài qủy dữ. Nhưng có một điều thật lạ lùng đó là tình yêu của Cứu Chúa Jêsus.
Ngài đã đổ huyết vô tội của mình để cứu lấy những đứa con tội lỗi. Cho nên Ngài
vẫn cứ xót thương cho dù tôi chẳng xứng đáng gì với ân điển cao vời đó. Ngài đã
đánh thức tôi dậy sau giấc ngủ bất an đầy rối loạn!
Tôi trở về nhà vào một đêm
rất khuya, say khướt. Nhà đóng cổng, tôi trèo rào bước vô. Nhìn trên bàn, mâm
cơm vẫn còn nguyên vẹn. Hai cái chén cùng với đĩa rau muống luộc; một quả trứng
gà cạnh chén nước mắm. Nhà tôi đã ngủ say,tay gát trên trán. Con tôi, hai đứa
bình yên trong lòng mẹ. Nhìn cái hình ảnh đáng yêu ấy làm cho lòng tôi xúc
động. Một sự ăn ăn trào lên và tôi vội qùy xuống xưng tội cùng Chúa. Sáng hôm
sau, tôi đến nhà thờ lúc năm giờ để cầu xin với Chúa; hứa từ bỏ những tháng
ngày lung lạc và quyết tâm sống theo những lời khuyên dạy của Ngài.
Trước ngày rời Việt Nam,
một người anh trong Chúa có tặng tôi bài thơ mà anh ấy nói rằng tác giả là một
người Y-pha-nho. Bài thơ dài được dịch sang tiếng Việt, trong đó có đoạn:
Nếu trước kia trên nẻo
đường phiêu đãng
Ai hỏi tôi sẽ dừng lại nơi
đâu?
Tôi trả lời ngay, chuyện đó
còn lâu
Vì đường giang hồ đưa về vô
tận
Bãi vi lau hay những bờ cát
trắng
Chỉ là nơi thuyền tạm ghé
mà thôi
Vầng trăng khuya không buộc
chặt hồn tôi
Tình du tử cắt rời niềm lưu
luyến…
Tôi ra đi thầm lặng và đơn
côi
Mái tóc đẹp nhòa dần theo
kỷ niệm
Những cặp mắt ngỡ ngàng nơi
góc biển
Những bàn tay trắng mịn
cuối chân trời
Khi hoàng hôn vừa cạn chén
ly bôi
Lời âu yếm khác chi lời gió
thoảng
Tình thắm đẹp khi rơi vào
quên lãng
Thì hương thơm mang sẵn vị
chua cay
Người giang hồ là hình ảnh
mây bay
Phiêu du mãi trên nền trời
bát ngát
Đôi khi tươi xanh và trong
mát
Đôi khi bão táp buồn âm u
Mùa đông về lạnh lão tiếp
sầu thu
Mùa hạ ấm sau mùa xuân rộn
rã
Mây vẫn bay qua miền quen
hay xứ lạ
Trong ngày quang hay những
tối không trăng
Là giang hồ ôm giấc mộng
vây quanh
Có ai nói sẽ dừng chân lữ
thứ
Nhưng thuở ấy nay trở thành
quá khứ
Mỏi giang hồ tôi dừng lại
nơi đây
Bài thơ dài cắt đứt những
câu say
Để viết tiếp bằng những câu
thành thật
Đời mưa gió lạnh vai ướt
ngực
Tình ngã nghiêng đôi mắt
nhức đau thương
Mối tình sầu đem gửi gió
mười phương
Trả sương lạnh cho ánh đèn
hải cảng
Có những lúc gục đầu trong
đêm tửu quán
Có những giờ say chén rượu
cháy vành môi
Trả tôi về những ngày cũ
đơn côi
Tôi đành sống êm hòa và
thuận phục
Giản dị lắm tôi trở về hạnh
phúc
Của người chồng biết yêu vợ
thương con
Con của tôi cặp mắt to tròn
Cười nũng nịu niềm vui hồn
hậu quá
Vợ của tôi như hạt sương
trong nếp lá
Đẹp long lanh mỗi lúc ngước
nhìn tôi
Hạnh phúc bình thường nhưng
rất xinh tươi
Tôi đón nhận với tình yêu
đơn giản
Nhưng có lúc vì quá ư phẳng
lặng
Tôi chợt thương chợt nhớ
thuở xưa kia…
Tình thuở ấy giờ đây thôi
đã hết
Nên buồn thương đôi lúc đến
trong mơ
Nhưng chỉ thóang qua nhè
nhẹ hững hờ
Như nét vẽ như vần thơ rất
mỏng
Khi con tôi đưa bàn tay bé
bỏng
Sẽ hỏi tôi và gọi khẽ, “ba
ơi”
Thì mùa xuân lại đến với
làn môi
Tóc lại đẹp với bình minh
tươi trẻ
Tiếng chim ca lại bừng lên
vui vẻ
Gió trên cành rạo rực bướm
tình si
Khi vợ tôi với sắc đẹp nhu
mì
Cười âu yếm hỏi anh, “sao
chưa ngủ?”
Thì mùa xuân tan dần trong
sương phủ
Trời thương yêu tinh tú
sáng long lanh
Tôi bảo nàng hãy cầm lấy
tay anh
Cho hạnh phúc đượm thêm màu
ân ái…
Cảm tạ Đức Chúa Trời đã cho
tôi cắt đứt với quá khứ của một thanh niên lãng tử, bằng lòng sống thuận phục
trong tình yêu mà Ngài đã ban tặng. Không có gì qúy hơn được sống bên những
người thân thích và ruột thịt của mình. Trong kinh nghiệm này, bài học từ sách
Châm Ngôn vô cùng ý nghĩa:
“Hãy uống nước hồ con chứa,
và nước chảy trong giếng con
“Các nguồn của nó há tràn
ra ngoài đường, và các suối của con tuôn nơi phố chợ…Con hãy lấy làm vui thích
nơi vợ con cưới buổi đang-thi
“Như nai cái đáng thương và
hoàng dương có duyên tốt.
“Nguyện nương-long nàng làm
thỏa lòng con luôn luôn
“Và ái tình nàng khiến con
say mê mãi mãi (Châm ngôn 5: 15-19)
“Kẻ nào phạm tội ngoại tình
với người đàn bà, tất vô tâm vô trí: Ai làm như vậy khiến cho lình hồn mình hư
mất. Người ấy sẽ bị thương tích và khinh bỉ, sự sỉ nhục người ấy chẳng bôi mất
đi.”
(Châm ngôn 6: 32, 33)
7. Quyền năng của sự chữa
lành
Tháng 9- 1987
Trong căn nhà mới của chúng
tôi mà Chúa vừa cho mua được, nằm sâu trong con hẻm của khu chợ Mới bùn lầy
tanh tưởi. Tôi nằm trên giường đã hơn ba ngày rên rỉ vì đau đớn. Một tai nạn đã
xảy ra trên đường đến nhà thờ vào một sáng Chúa nhật. Xe Honda của tôi bị ngã
xuống vì một chiếc xe xích lô húc vào. Vợ con tôi cùng ngã xuống đất nhưng bình
yên. Chỉ riêng tôi không đứng dậy được.
Theo lời người thầy thuốc
chuyên khoa bảo rằng lớp mỡ bên hông bị giãn ra, và vài đốt xương bị thương
tổn. Tôi đã đến một lương y gia truyền để mua thuốc của ông thầy Vàng về uống
và xoa bóp, nhưng vẫn không khỏi. Bác sĩ Đại đã mèn xương, nhưng không kết quả.
Thế rồi, tôi vẫn nằm bất động trên giường thở than cùng Chúa, kiểm điểm lại
cuộc sống của bản thân mình tìm xem những điều gì chưa đẹp lòng Chúa.
Rồi một ngày nọ, có ba
người phụ nữ đến thăm. Hai bà là vợ của mục sư Mã Phúc Minh, mục sư Nguyễn Tợi
cùng bác Việt Hương. Đến giờ cơm trưa, gia đình chúng tôi mời qúy bà dùng bữa.
Trước khi ăn, qúy bà cùng cầu nguyện cho tôi. Bác Việt Hương cầu xin với Chúa
giọng thiết tha và ngọt ngào:
“Lạy Chúa là Cha của chúng
con. Xin Cha thương xót thầy Văn. Cảm ơn Cha vì điều đó đã xảy ra để làm vinh
hiển danh Cha. Con tin rằng giờ này đây Chúa sẽ chữa lành cho thầy. ‘Mọi việc
hiệp lại lám ích cho công việc của Đức Chúa Trời.’ Thầy Văn có vấp phạm điều gì
xin Cha tha thứ và chữa lành cho…”
Lời cầu nguyện vừa chấm dứt,
một phép lạ cũng vừa xảy ra. Như có tia điện chạy vào tòan thân chạm mạnh vào
chỗ đau; làm tan biến sự nhức nhối trong khoảnh khắc. Tôi nghe như có bàn tay
êm dịu đỡ tôi ngồi dậy. Tôi vui mừng trong nỗi ngạc nhiên và sợ hãi. Tôi thử
bước chân xuống đất, rồi đi qua đi lại, nhảy lên. Ồ lạ lùng, tôi hoàn toàn bình
thường vì Chúa đã chữa lành vết thương. Mọi người trố mắt nhìn tôi không ngớt
lời cảm tạ ngợi khen Chúa. Ngay sau giờ phút đó, cái bàn thờ ông bà trên gác
lửng của ba mẹ tôi được dọn dẹp. Chúa nhật của tuần lễ đó, cà gia đình tôi đến
nhà thờ tiếp nhận Chúa Jêsus.
Từ biến cố được chữa lành,
trong đời sống tôi có rất nhiều thay đổi. Tôi gần gũi Chúa hơn. Những thắc mắc,
hồ nghi về những câu chuyện trong Kinh Thánh dần dần biến mất. Tôi hoàn toàn
tin vào quyền năng của sự chữa lành của Chúa. Tôi nhớ lại nhiều câu chuyện được
chữa lành trong quyển sách “Thượng Đế Còn Làm Phép Lạ” của bà Kathryn Kuhlman,
và tin rằng Chúa Jêsus hôm qua ngày nay và mãi mãi không bao giờ thay đổi.
Cũng từ đó được sự quan tâm
giúp đỡ của nhiều tôi tớ Chúa, tôi tập tễnh đi nhiều nơi để làm chứng nhân cho
Đức Chúa Trời.
“Nhưng người đã vì tội lỗi
chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương, bởi sự sửa phạt người
chịu, chúng ta được bình an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bịnh.”
(Ê-sai 53: 5)
8. Chúa mở đường
Trên đường từ nhà thờ Quế
Sơn trở về Đà Nẵng, lòng tôi buồn man mác không hiểu tại sao Chúa vẫn để chúng
tôi còn nhiều lận đận về cơm áo? Tôi vẫn phải những công việc mà tôi không ưa
thích. Tôi làm nghề chụp ảnh công viên với những tháng năm buồn tủi. Rồi tham
gia vào những chuyện làm ăn mua bán phiêu lưu. Tôi rất ngại tiếp xúc những con
người mánh mung gian trá. Tôi cố nài xin Chúa mở đường cho tôi một công việc
làm ăn lương thiện và phù hợp với năng khiếu của mình. Ngày tháng vẫn cứ trôi
qua trong nỗi khắc khoải đợi chờ…
Gia đình tôi đông người,
tám nhân khẩu. Cha mẹ già yếu, công việc làm ăn của tôi thất thường và lây lất.
Vợ tôi ngoài việc đi dạy ở trường, về nhà còn phải tất bật với cái quày buôn
bán nước mắm. Mỗi sáng lúc 5 giờ, tôi và đứa con gái đầu năm tuổi, hai cha con
đèo nhau trên xe đạp ra chợ Cồn mua các loại trái cây như cốc, ổi, mía, xoài về
bán thêm cho trẻ con trong xóm. Bé Hạnh đi với tôi cho có bạn và trông coi xe
đạp. Có lần nó thèm ăn chôm chôm mà tôi không đủ tiền nên dạy cho nó bài hát:
“Muốn chôm chôm mà không có tiền, không có tiền thì không có chôm chôm.” Nó
nhanh nhẹn hát theo và trả lời: “Thế thì ba mua cho con củ khoai cũng được.”
Tôi ngồi xuống ôm con gái vào lòng; xoa trên cái đầu bé bỏng của nó. Những giọt
nước mắt âm thầm chảy xuống. Tình cảnh của chúng tôi bây giờ sống thật đơn sơ
và nghèo khó. Mỗi tháng chỉ mong có được đủ củi đun bếp và gạo đầy thùng thì đã
yên lòng.
Như bao nhiêu gia đình
khác, chúng tôi cùng chung hoàn cảnh sau những đổi thay của đất nước. Mỗi người
quần quật làm việc ngày đêm mà vẫn không đủ sống. Chính vì những khó khăn cực
kỳ vây hãm, khiến cho con cái của Chúa lắm khi cũng hành động theo ý riêng của
mình. Không còn đợi chờ Chúa nữa, tôi quyết định “tự mở đường!” Aó quần đã bỏ
vào chiếc xách tay, chuẩn bị về quê để tham gia vào giới buôn trầm. Đang ngồi
ăn sáng, bỗng chiếc xe Hon-da đỗ xịch trước nhà. Một người đàn ông chậm rãi
bước vào. Tôi nhận ra đó là một giáo sư ngoại ngữ, đến mời tôi hợp tác dạy
tiếng Anh. Tôi nhận lời mà không cần suy nghĩ. Chúng tôi tạ ơn Đức Chúa Trời vì
Ngài đã thương xót, không muốn tôi dính líu vào những chuyện làm ăn phiêu lưu
và liều lĩnh!
Lòng tôi hoan hỉ được trở
về với cái nghề yêu thích. Tôi say mê trong những giờ lên lớp. Tháng ngày qua
đi êm đẹp trong niềm vui rộn ràng của một nhà giáo. Tôi luôn cầu nguyện biết ơn
Chúa trước những giờ lên bục. Học trò tôi già trẻ, lớn bé nhiều hạng tuổi khác
nhau, xuất thân đủ mọi thành phần. Nhưng giữa họ và tôi không hề có khoản cách;
bởi vì trong tôi được mặc lấy một thứ tình yêu mà người thế gian không thể có.
“Ngài sẽ nghe lời cầu
nguyện của kẻ khốn cùng
“Chẳng khinh dễ lời câu xin
của họ.”
(Thi Thiên 102: 17)
9. Hy vọng đời sau
Ngày 30-4-1990
Bệnh suy tim của mẹ tôi mỗi
ngày thêm trầm trọng. Bác sĩ đã bó tay khuyên cho bà nghỉ ngơi và ăn uống bổ
dưỡng. Chúng tôi cầu nguyện thiết tha xin Chúa cho bà sống thêm vài năm nữa.
Suốt cuộc đời mẹ tôi chưa có một ngày thong thả. Tôi ước ao mẹ tôi được thỏa
lòng vui hưởng hạnh phúc bên con cháu. Nhưng có lẽ đã qúa muộn màng vì mẹ tôi
sẽ không còn được sống bao lâu nữa. Theo lời chẩn đoán của bác sĩ bệnh viện Đa
Khoa, thì mẹ của tôi đang ở thời kỳ cuối cùng của bệnh suy tim già, bội nhiễm
phổi. Chúng tôi kiên nhẫn cầu nguyện và đưa mẹ tôi đến gặp bác sĩ Quyền, nổi
tiếng về chuyên khoa tim. Ông nhận lời theo dõi và điều trị. Kết cuộc Chúa cho
mẹ tôi sống thêm được ba năm. Vào những ngày cuối Xuân năm 1990, sau cơn đau
khủng khiếp, mẹ tôi rên rỉ và ngất đi. Vừa từ trường trở về, vợ chồng chúng tôi
qùy gối cầu nguyện: “Lạy Chúa, mẹ của chúng con đau đớn quá! Xin Chúa chữa lành
cho mẹ con. Nếu đẹp ý Ngài thì cho mẹ con được về cùng Chúa một cách bình an.”
Ngay tức khắc mẹ tôi hết rên rỉ và ngủ thiếp. Chúa khiến cho tôi cũng ngủ quên
đi. Trời chưa sáng, tôi giật mình thức giấc, chạy qua phòng mẹ, sờ tay lên trán
của bà, lạnh ngắt. Tôi đặt tay lên ngực, chỉ còn chút hơi ấm thoi thóp. Tôi vội
vàng đánh thức cả nhà dậy, vây quanh giường mẹ, chúng tôi quỳ xuống thưa với
Chúa trong những giọt nước mắt:
“Chúa ôi! Thế là Ngài đã
cất mẹ của chúng con về với Ngài… Tạ ơn Chúa…” Tôi không thể nói gì thêm hơn
được nữa. Một nỗi xót xa vô tận nghẹn cứng ở cổ. Dẫu biết rằng, linh hồn mẹ tôi
chắc sẽ về cùng Chúa, nhưng sao trong tôi cảm thấy hụt hẫng trước sự ra đi này.
Còn nỗi buồn nào hơn khi
chia tay với người thân yêu nhất của mình? Bản thân tôi bị dày vò vì bao nhiêu
ân hận, không cảm thấy thỏa lòng trong sự chăm sóc khi mẹ tôi còn sống. Nhà tôi
nghèo cùng chung trong nỗi bất hạnh của đất nước sau chiến tranh. Mẹ tôi chưa
một lần được đi nhà hàng sang trọng, chưa được tắm vòi sen, cũng chưa có được
những bộ áo quần xinh đẹp. Thế rồi, mẹ tôi ra đi mà chưa được nhìn ngắm đứa
cháu nội trai mà lòng bà ao ước. Nó đang còn ở trong bụng!
Mẹ thường bảo con ôi, đừng
gian dối
Thương người ta đừng đổi dạ
thay lòng
Với tháng năm khắc khoải
chờ mong
Cô dâu trẻ đưá cháu đầu
kháu khỉnh
Giống hệt như cha dáng to
tròn trĩnh
Để mỗi chiều mẹ ru hát ầu
ơ…”
Trong những ngày này, gia
đình chúng tôi sống trong sự chật vật. Mới bắt đầu đi dạy lại lương ba đồng ba
cọc chẳng đủ thiếu vào đâu. Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài đã chăm sóc lo liệu
mọi sự. Từ Hội Thánh, các đầy tớ Chúa và anh em trong cùng đức tin, mỗi người
một tay lo cho tang lễ vinh hiển danh Chúa.
Những ngày đầu vắng mẹ, nhà
chúng tôi quạnh quẽ lắm. Ba tôi trở nên ít nói. Hai đứa con gái của chúng tôi
buồn xo. Còn tôi đêm đêm từ trường trở về lên gác nằm khóc. Nhìn những kỷ vật:
cái nồi đồng sứt quai, đôi dép tôi mới mua cho mẹ, cái giá tráng bánh, cái áo
len bạt màu… lòng tôi nhói đau và cầu xin Chúa ban cho niềm an ủi. Cả cái quá
khứ dài đằng đẵng mẹ tôi gánh chịu bào nhiêu là gian khổ ở một miền quê hẻo
lánh. Chúng tôi được lớn lên trong mái nhà tranh xiêu vẹo ngô khoai qua ngày.
Mẹ tôi phải thức dậy sớm trước khi gà gáy sáng để xay bột, tráng bánh, và nuôi
chúng tôi khôn lớn. Bao nhiêu giải nắng dầm mưa mẹ tôi oằn vai gánh chịu.
Thương con mùa đông không có áo, bà lặn lội đi bộ nửa ngày đường để vay tiền
mua cho tôi chiếc áo lạnh. Những ngày vào đại học, mẹ tôi bán hết cả đàn heo mà
vẫn không đủ mua nổi cái vé máy bay. Khi lấy vợ, mẹ tôi lại tiếp tục nuôi heo
và hy vọng đủ sắm cau trầu để cưới vợ cho con. Nào ngờ bầy heo bị dịch chết, bà
buồn bã khóc mấy ngày đêm. Từ nhà quê về thánh phố cưới vợ, tôi chở mẹ tôi trên
chiếc xe đạp cọc cạch, lại đèo thêm buồng cau nặng trĩu. Đi một đoạn thì phải
dừng lại vì mông của bà sưng lên không chịu nổi! Đám cưới con trai, không có
nhẫn vàng cho cô dâu, không tiệc tùng ăn uống. Đêm tân hôn, mẹ tôi muốn sống
cùng con trai để nhìn thấy hạnh phúc của nó, nhưng bà không thể ở lại, vì tôi
“bị”gửi rể. Phút chia tay trở về quê hai mẹ con cùng khóc. Đêm tân hôn của
chúng tôi không có gì cả ngoài một bài thơ:
Hạnh phúc về sao tôi lại
khóc
Bạn bè ôi, tôi muốn ôm hôn
Những tấm lòng phong trong
giấy kín
Những bàn tay siết chặt đáy
hồn
Cánh cửa khép bạn bè đi mất
hút
Chỉ còn đây ly tách ngổn
ngang
Tôi cúi mặt gục đầu trên
nệm mới
Rượu tân hôn pha lẫn chút
men tàn
Cánh cửa khép mọi người đi
mất hút
Những bà con cha mẹ bỏ tôi
về
Gần ba mươi tôi làm thân
gửi rể
Trong lòng buồn như mới tập
làm dâu
Bên người vợ thơm mùi gối
mới
Đêm tân hôn thức trắng làm
thơ
Bao chờ đợi vẫn nguyên còn
trinh tiết
Mà tình yêu chẳng có bến
bờ!
Đà Nẵng 17/5/ 1980
Giờ này đây, tôi tin rằng,
mẹ tôi đã ngủ yên trong vòng tay của Chúa. Bà được giải phóng khỏi những tháng
năm nhọc nhằn lao khổ của trần thế. Linh hồn bà được yên nghỉ nơi cõi vĩnh
hằng. Vào một ngày tương lai khi Chúa tái lâm chúng tôi sẽ được gặp lại nhau.
“Phước cho người chết là
chết trong Chúa! Đức Thánh Linh phán: Phải vì những người ấy nghỉ ngơi khỏi sự
khó nhọc, và việc làm mình theo sau.”