Ước ao được nghe những lời phê bình góp ý chân tình của qúy ông bà anh chị em trong Chúa, để tôi có dịp "edit" lại trước khi cho cuốn sách ra mắt chính thức. Mọi đóng góp của qúy vị và các bạn là những phần thưởng qúy giá và quan trọng đối với tôi. Tôi muốn cuốn sách được đem lại kết quả cho công việc Chúa và xin dâng sự vinh hiển lên cho Ngài. A men!)
10. Lê
Nguyễn Thiên Phước
Tháng 9- 1991
Một cháu trai nữa ra đời.
Một niềm vui mới tràn ngập trong gia đình chúng tôi. Một đứa con cầu mà chúng
tôi đã thiết tha xin Chúa ban cho trước khi mẹ tôi về với Ngài. Tôi tiếc rằng
bà không được nhìn thấy nó. Cháu rất là khôi ngô. Mặt mày sáng quắc. Lúc nào
cũng tươi cười, hiếm khi thấy nó khóc. Chúa chăm sóc nó từ khi còn trong bụng
mẹ. Ngài lo liệu và chu cấp mọi thứ. Chúng tôi đặt tên cho nó là Lê Nguyễn
Thiên Phước. Quả thật, Phước là ân sủng đến từ trời. Phước là niềm ước mơ, an
ủi, là hạnh phúc bất tận của chúng tôi. Chúng tôi biết ơn Chúa vì Ngài đã ban cho
món quà vô giá này, để bù đắp lại sự thiếu vắng của mẹ tôi. Chúng tôi đã dâng
Phước lên cho Chúa với ước nguyện lớn lên Phước chỉ hầu việc một mình Ngài mà
thôi!
Ngay từ lúc mới lọt lòng
cho đến khi lớn lên, Phước được nuôi dưỡng trong hoàn cảnh sung túc của gia
đình. Phước chưa bao giờ thiếu sữa hay bất cứ thứ gì. Đức Chúa Trời chu cấp mọi
sự. Phước thích sinh hoạt trong nhà thờ, chơi với bạn bè trong Chúa. Tuổi lên
năm, Phước đã biết đã ngồi vào bàn phím computer và tập tành đánh máy. Lên bảy,
đã viết thư cho tôi bằng email lúc đó tôi ở Đại hàn. Có lần chúng tôi hỏi
phước:
- Lớn lên con sẽ làm gì?
- Con sẽ làm mục sư. Phước
không ngần ngại trả lời.
- Làm mục sư nghèo lắm! Đi
xe đạp con chịu không?
- Đi bộ cũng được.
Chúa cho Phước học hành rất
thông mình, được nhiều cô thầy yêu mến. Khi sang Mỹ, những cô giáo dạy Phước
trở thành người đỡ đầu và nâng đỡ nhiều thứ khi cần thiết. Tốt nghiệp trung học
ưu hạng trước khi niên khóa kết thúc sáu tháng. Chỉ tiếc rằng, diện di trú của
chúng tôi, Phước không có học bổng. Trong khi chờ đợi tốt nghiệp, Phước phải đi
thực tập tại một tiệm bán và sửa computer. Sau khi thực tập, Phước được người
ta nhận làm thợ sửa vi tính ở đó. Vào đại học, vừa học vừa làm. Phước dậy đi
làm từ lúc bốn giờ sáng, nhưng mặt mày vẫn vui tươi, đầy chí khí. Phước đặt
niềm tin trọn vẹn nơi Cứu Chúa. Tính tình hiền hòa, nhân hậu, sẵn sàng giúp đỡ
mọi người khi có thể. Phước không “đa sầu, đa cảm” như cha của nó. Phước sống
thực tế, mạnh mẽ và cương quyết trong bản chất của một người đàn ông. Có được
sự phước hạnh này, chính là do sự đáp lời của Đức Chúa Trời trước sự qùy gối
thiết tha cầu xin mỗi ngày của cha mẹ nó.
Chúng tôi có ba đứa con đều
yêu mến và kính sợ Chúa. Mỗi khi có điều gì bất hoà giữa hai vợ chồng cãi vã
nhau, hai đứa lớn liền qùy gối xuống cầu nguyện với Chúa. Nhìn những giọt nước
mắt chảy xuống trên những đôi gò má thơ ngây của chúng, hai chúng tôi nhìn nhau
và nín lặng. Đó là những vị quan toà tí hon “xét xử” ba mẹ chúng. Cái hình ảnh
ấy đối với tôi như là lời răn đe của Chúa cũng là món qùa thật dễ thương mà Đức
Chúa Trời đã ban tặng. Không còn hình ảnh nào đẹp hơn khi nhìn thấy ba đứa con
qùy gối cầu nguyện. Đứa lớn chìm trong suy tư, miệng lâm râm thưa chuyện cùng
Chúa, đứa nhỏ lộ những chiếc răng sún và Cu Tí (Thiên Phước) mắt nheo lại,
miệng mủm mỉm cười!
Tạ ơn Đức Chúa Trời! Từ
ngày Thiên Phước ra đời, cuộc sống trở nên dễ chịu. Chúng tôi không còn quá tất
tả ngược xuôi lo từng bữa ăn như trước. Trong nhà, Chúa ban cho gạo cơm đầy đủ.
Tôi vừa đi dạy ở Trung Tâm Ngoại Ngữ, vừa dạy thêm ở các cơ quan, thu nhập bắt
đầu dư giả. Còn Phượng ngoài những giờ lên lớp, ở nhà buôn bán thêm với cái
quày nước mắm. Bây giờ có những mối lái lấy hàng sỉ, nên số tiền lời khá hơn.
Mỗi ngày đi qua là một ơn
phước lớn. Đời sống đức tin của gia đình chúng tôi cũng dần già lớn lên. Tôi
tham gia vào ban truyền giảng của Hội Thánh. Mỗi tuần vào chiều Chúa nhật cùng
với anh em chia nhau đi khắp các phố phường để thăm viếng và chứng đạo. Tôi
được bầu vào ban Chấp sự của Hội Thánh và có nhiều cơ hội để phụng sự và hầu
việc Đức Chúa Trời.
Bóng tối dường như bị xô
đuổi ra khỏi mái nhà êm ấm khi có Đức Chúa Trời ngự trị. Thay cho những oán
than là tiếng cười đùa của niềm phước hạnh. Thay cho những ưu tư, vô vọng về
một tương lai mờ tối là ánh sáng của tình yêu choáng ngợp. Chúng tôi ngất ngây
vui hưởng hạnh phúc trong bóng cánh của Đấng Toàn Năng.
“Phước cho người nào kính sợ
Đức Giê-hô-va,
“Đi trong đường lối Ngài
“Vì ngươi sẽ hưởng công
việc của tay mình
“Được phước, may mắn
“Vợ ngươi ở trong nhà ngươi
“Sẽ như cây nho thạnh mậu;
“Con cái ngươi ở chung
quanh bàn ngươi
“Khác nào những chồi
ô-li-ve
(Thi Thiên 128: 1,2, 3)
11. Chúa lắng nghe tiếng kêu cầu
Tháng 11-1991
Chúng tôi nhận được quyết
định giải tỏa nhà nằm trong khu vực đường Hoàng Diệu, nối dài với đường vào
Quân Khu 5. Lệnh giải tỏa khẩn cấp phải được thi hành vào tháng mười hai.
Trước tình thế ấy căng
thẳng ấy, hai mươi ba hộ thuộc diện giải tỏa rất khổ đau vì bị mất đất, mất nhà
vì số tiền đền bù không thể nào tương xứng với giá trị bất động sản của họ.
Ngày đêm, nhiều người mất ăn mất ngủ chạy quanh kêu rêu than khóc. Riêng gia
đình chúng tôi, ban quy hoạch đo đất lần thứ ba, thì nhà chúng tôi mất đi hết,
chỉ còn lại bề sâu độ chừng một mét rưỡi. Chúng tôi không quá bối rối tuy cũng
có đôi chút băn khoăn.
Mỗi ngày, tôi lên nhà thờ
cầu nguyện lúc năm giờ sáng cùng một nhóm tín hữu. Tôi trải tờ giấy quyết định
giải tỏa của Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh ra sàn và dâng nan đề lên cho Chúa. Lòng tôi
tin quyết rằng Đức Chúa Trời sẽ lo liệu mọi sự. “Lạy Chúa của con! Ngợi khen
Ngài về cơ hội để chúng con nếm biết về quyền năng của Ngài trong sự quan phòng
che chở. Đây là lệnh giải tỏa của chính quyền. Nhà của chúng con sẽ mất. Xin
Cha cho chúng con một chỗ ở khác khang trang hơn, xinh đẹp hơn, để làm sáng
danh Cha. Xin Cha ban cho chúng con bảy mươi mét vuông và một ngôi nhà theo
thiết kế theo ý của Cha. Chúng con chẳng làm chi được ngoài sự cậy trông nơi
Ngài. Con cầu nguyện trong danh Chúa Jêsus- Amen!”
Vậy là chúng tôi tin chắc
sẽ được đáp ứng nhu cầu; vì Đức Chúa Trời là Cha của chúng tôi, Ngài đã mua bảo
hiểm cho chúng tôi, còn gì mà lo sợ!
Đến ngày nhận đất đền bù,
thật lạ lùng đến run sợ. UBND Phường giao cho chúng tôi 68 mét vuông, cộng với
mái hiên 2 mét. Chúng tôi qùy gối xuống với nhau để dâng lên Cha lời cảm tạ
ngợi khen Ngài.
Đây là đất Chợ Mới đập ra,
dời vào cuối đường giáp Quân Khu. Miếng đất giao cho chúng tôi vuông vắn, đẹp
nhất so với ba hộ còn lại.
Nhà nước trả cho chúng tôi
mười một triệu. Số tiền đó chỉ đủ mua sắt mà thôi. Trong đức tin, tôi nhờ người
quen thân thiết kế bảng vẽ căn nhà lầu ba tầng ngoài sức tưởng tượng. Cắm xong
mười hai trụ bê tông xuống đất mà tưởng chừng như sống trong mơ! Ông chủ thầu
nói với chúng tôi: “Cứ làm đi, thiếu thì tôi cho nợ.” Người bán vật liệu bảo
rằng: “Thầy lo chi, cứ chở xi măng về làm, từ từ trả.” Xi- măng bây giờ hạ giá,
một chỉ vàng cộng thêm hai chục ngàn thì mua được một tấn. Gạch của chợ Mới đập
ra, bán giá một phần ba. Vàng thì có học viên và phụ huynh sẵn sàng cho mượn
không điều kiện. Chúa chuẩn bị cho chúng tôi biết bao nhiêu là thuận lợi.
Chưa đầy sáu tháng sau, căn
nhà lầu được cất lên đầu tiên của khu chợ Mới. Tình yêu của Chúa được bày tỏ
qua những gì mà Ngài đã ban cho gia đình chúng tôi một cách vui mừng đáng sợ!
Chúa đãi ngộ chúng tôi vì đặt niềm tin trọn vẹn nơi sự thướng xót của Ngài.
Chúng tôi bước đi trong niềm phước hạnh vô biên. Sự cực nhọc của hai vợ chồng
trong suốt những đêm kéo đá, khuân gạch, phồng tay được đền bù xứng đáng.
Tình Yêu của Chúa được dựng
nên sáng lòa làm bực bội bao con mắt hờn ghen và đố kỵ! Người trong xóm phân
bì: “Bọn hắn từ đâu đến đây lại làm giàu. Tụi mình sống ở đây ba đời, bốn kiếp
không có mảnh đất cắm dùi, lại còn ở mặt đường nữa chứ, còn hơn trúng số độc
đắc!
Vâng, chúng tôi “trúng
số”thật. Đó là số mà Đức Chúa Trời đã lựa chọn được làm con cái của Ngài. Người
thế gian ngạc nhiên và đặt nhiều dấu hỏi. Họ thắc mắc với đồng lương dạy học
làm sao chúng tôi có thể xây được một căn nhà như thế? Chính chúng tôi cũng khó
có câu trả cho thỏa đáng mỗi khi ai hỏi đến. Họ đâu biết rằng Đức Chúa Trời là
Đấng tạo nên vũ trụ thế gian này, thì có điều gì là bất năng đối với Ngài. Đức
Chúa Trời giàu có vinh hiển. Ngài sẽ ban cho những con cái của Ngài mà không
tiếc nuối điều gì.
“Hãy xin sẽ được; hãy tìm
sẽ gặp;hãy gõ cửa sẽ mở cho. Bởi vì hễ ai xin thì được; ai tìm thì gặp; ai gõ
cửa thì được mở. Trong các ngươi có ai khi con mình xin bánh, mà cho đá chăng?
Hay là con mình xin cá, mà cho rắn chăng? Vậy các ngươi vốn là xấu còn biết cho
con cái mình các vật tốt thay, huống chi Cha các ngươi ở trên trời lại chẳng
ban các vật tốt cho những người xin Ngài sao?”
(Mathiơ 7: 7-11)
Niềm vui hiện tại khiến
chúng tôi không thể nào quên những tháng năm sống trong sự bất hạnh. Hai vợ
chồng lang thang nhiều chỗ “ở đùm ở đậu” nuốt bao nổi đắng cay. Chiếc xe đạp
lộc cộc cũ mềm đèo nhau đi trên những chặng đường gian khổ, tìm kiếm một mái tôn
để nấp mưa che gió.
Gia tài chẳng có gì khác
hơn là ít sách vở cùng với mấy cái son nồi lỉnh kỉnh. Chúng tôi chở nhau đi
trong tủi nhục, cùng chia sẻ niềm đau của thân phận nghèo hèn! Bây giờ Chúa đã
thay đổi cuộc đời. Nhìn lại những chặng đường đã qua chúng tôi xin dâng lên
Chúa hai trái tim tan vỡ với tấm lòng biết ơn Cha sâu sắc.
12. Quan án công bình
“Đức Chúa Trời là quan án
công bình
“Thật là Đức Chúa Trời hằng
ngày nổi giận cùng kẻ ác.
“Nếu kẻ ác không hối cải,
thì Đức Chúa Trời sẽ mài gươm: Ngài đã giương cung mà chực cho sẵn.”
(Thi Thiên 7:11)
Tại Trung Tâm Ngoại Ngữ có
người bạn đồng nghiệp mà chúng tôi vốn qúy mến nhau, mặc dù chúng tôi không
cùng một niềm tin. Đạo của anh ấy vừa tin có Thượng Đế, lại vừa tin những kẻ đã
chết và đủ loại thần thánh. Tuy nhiên, khi cùng làm việc chung với nhau, tôi để
ý đến những cử chỉ và hành động của anh đối với những người nghèo khổ, anh ta
thường bố thí và có vẻ cảm thương số phận của họ. Tôi thầm mừng và hy vọng một
ngày nào đó, anh sẽ hiểu Chúa Jêsus là ai. Tôi sẽ tìm cơ hội làm chứng.
Thế nhưng, không đúng như
tôi nghĩ. Anh ấy bắt đầu quay lưng lại với tôi khi mà quyền lợi vật chất cám
dỗ. Anh cùng những người thân trong gia đình bên vợ tìm cách hất cẳng tôi ra
khỏi Trung tâm, bởi vì họ muốn chiếm đoạt lầy quyền điều hành khi đối diện với
đồng tiền. Anh ấy và tôi là những người đầu tiên xây dựng Trung tâm giảng dạy
từ không đến có. Chúng tôi đã trải qua bao gian khổ cùng chia sẻ ngọt bùi cho
đến khi hình thành một Trung tâm tư thục giảng dạy ngooại ngữ. Xét về phương
diện hành chính anh ấy có nhiều thuận lợi hơn, nên mấy anh em giáo viên cùng
bầu cho anh ấy làm giám đốc. Anh ấy đứng tên tài khoản ngân hàng.
Theo nội quy chung, lớp nào
sỉ số học viên đạt 100 trở lên thì được bồi dưỡng hai chục nghìn (tương đương 1
USD ngày nay). Lần đó, con tôi thiếu sữa vì mẹ của nó không đủ sữa nuôi nó.
Chúng tôi phải mua sữa ngoài. Một lon sữa Liên Xô giá hai chục nghìn. Tôi gặp
anh ấy và trình bày rằng cho tôi được nhận số tiền bồi dưỡng vì lớp tôi có đến
99 học viên. Anh ấy từ chối bảo rằng còn thiếu một học viên nữa. Tôi buồn bã đi
lang thang ngoài phố suy nghĩ cách nào để có được hai chục nghìn mua sữa cho
con. Tình cờ tôi gặp anh Lê Tự Cam ngoài phố, anh ấy hỏi:
- Em đi đâu lang thang vậy? Có chuyện gì không vui phải không?
- Dạ, em đi mua sữa cho con bé. Tôi thành thật trả lời.
- Ồ! Được rồi, đi qua đây với anh. Anh muốn mua cho cháu lon sữa này
nghen! Để bác mua cho cháu của bác chứ…
- Em cảm ơn anh, thật là đúng lúc. Tạ ơn Đức Chúa Trời.
Anh Cam trao lon sữa cho
tôi trong tình thương yêu của một người anh trong Chúa. Còn tôi, chẳng biết nói
gì hơn để bày tỏ hết lòng biết ơn của mình đối với anh ấy. Tôi vui mừng đạp xe
đem sữa về cho con, ngồi xuống bên vợ mình và kể cho cô ấy nghe câu chuyện tình
yêu trong Chúa. Phượng nắm khẽ bàn tay tôi và quay đi để tôi không nhìn thấy cô
ấy khóc.
Tuần sau, bỗng tôi nhận
được một số lá thư mà anh bạn đồng nghiệp trao cho tôi nói rằng:
- Thư của học viên góp ý.
Thản nhiên, tôi đọc hết
những là thư với nội dung rất xấu: bôi nhọ vô cớ và vu khống những điều không
hề có. Tôi hỏi anh ấy:
- Tại sao anh tổ chức cho học viên làm việc này?
Vì tôi muốn nắm bắt ý kiến
từ học viên để đáp ứng nhu cầu của họ.
- Thế à?
Giờ sau, tôi vào lớp hỏi
học viên của mình, họ hoàn toàn không hay biết gì về những là thư ấy. Tôi gặp
gỡ những lớp khác mà tôi phụ trách, họ cũng chẳng biết gì cả. Thì ra, người
đồng nghiệp của tôi đã bày trò gian xảo cốt ý hạ nhục tôi để tôi ra đi. Anh ta
và gia đình bên vợ sẽ toàn quyền điều hành Trung tâm và chiếm đoạt tài sản cùng
tiền bạc.
Quá buồn đau trước nhân
tình thế thái, tôi chạy lên nhà thờ gặp Mục sư Quản nhiệm và thưa cùng ông:
- Thưa Mục sư, con có điều này muốn hỏi ông.
- Vâng, thầy cứ hỏi. Ông luôn ôn tồn và nhân hậu
Con có gặp một chuyện không
vui ở Trung tâm nơi con dạy, và con đã cầu nguyện một tháng rồi, nhưng Chúa vẫn
chưa trả lời. Xin ông giúp con…
Thầy cứ thong thả kể hết
nội dung cho tôi nghe. Thế là tôi kể cho vị Mục sư Quản nhiệm hết ngọn ngành
câu chuyện. Mục sư hỏi tôi:
- Thầy đã cầu nguyện như thế nào với Chúa?
- Thưa Mục sư con cầu nguyện như thế này: “Chúa ơi! Chắc Chúa đã
biết rõ mọi sự xảy ra giữa con và người bạn đồng nghiệp. Con đau lòng quá, xin
Chúa bênh vực con và mời anh bạn con ra khỏi trường.”
Vị Mục sư mìm cười hiền
hậu. Ông nắm tay tôi và khuyên lơn cách nhẹ nhàng:
- Thầy ơi! Cầu nguyện như vậy không đẹp lòng Chúa. Thầy về cầu
nguyện lại với nội dung: Tạ ơn Chúa đã cho sự việc xảy ra. Xin Chúa tha tội cho
người bạn, và thầy cũng bằng lòng tha thứ cho anh ấy. Xin Ngài chọn cho một chỗ
dạy khác.
Tôi cảm ơn vị Mục sư khả
kính của mình và vui vẻ ra về. Sáng sớm hôm sau, tôi dậy thật sớm lên sân
thượng qùy gối thiết tha với Chúa trong sự kêu cầu:
“Kính lạy Đức Chúa Trời của
con. Xin thứ lỗi cho con vì đã có những lời cầu xin ích kỷ vì con quá đau lòng.
Con khổ sở vì bị bạn bè phản bội. Xin Chúa rũ lòng thương. Con bằng lòng tha
thứ cho người bạn của con và mong ngày anh ấy gặp được Chúa. Xin Ngài cho con
một nơi dạy khác. Con biết ơn Chúa. Con cầu nguyện trong danh Chúa Jêsus.
Amen!”
Đang khi cầu nguyện, một
cơn gió lốc đột nhiên thổi đến làm tung bay mịt mù bụi cát. Vài chậu hoa kiểng
bỗng dưng ngã rạp xuống cách lạ lùng đáng sợ! Một hiện tượng không bình thường
mà tôi chưa bao giờ chứng kiến như vậy. Tôi vội chạy xuống cầu thang la lớn:
- Phượng ơi! Chúa nhậm lời của anh rồi!
- Về cái gì?
- Chuyện ở trường, ngoạn mục lắm! Tôi kể cho nhà tôi nghe về những
gì đã xảy ra. Nhà tôi chỉ mỉm cười im lặng.
Chín giờ sáng của ngày hôm
đó, một học viên thân thiết của tôi chạy đến nhà tôi hớt hãi báo tin:
- Thầy ơi! Thầy có biết gì không, thầy Lợi đã dọn trường đi hết. Em
mới vào trường thấy người ta đang bưng dọn mọi thứ…
- Thế à? Cảm ơn em đã báo tin.
Tôi qùy xuống ngay tức
khắc, run sợ trước quyền năng của Đức Chúa Trời. Tôi ngước mắt lên cảm tạ Đấng
Quyền Năng với tấm lòng phơi phới. Tôi lấy xe chạy đến Trung tâm, quả thật anh
ấy đã tháo gỡ đi mọi thứ và để một thông báo trước cổng trường cho học viên về
điạ điểm mới của Trung tâm.
Tôi cố nén xúc động, nhưng
nước mắt vẫn cứ chảy xuống. Hôm ấy, một mình tôi đứng trong sân trường lâu lắm.
Mọi thứ chung quanh đều có vẻ hiu quạnh trong buổi sớm mai đầy nuối tiếc. Những
hình ảnh của buổi ban đầu nhảy múa trong tâm trí. Tôi nhớ những ngày chúng tôi
đã chia nhau củ khoai, ổ bánh mì trước khi đến lớp. Chúng tôi cũng đã từng nằm
nghỉ trưa với nhau dưới sàn nhà trong phòng học. Những tâm sự buồn vui cùng san
sẻ. Tất cả mọi thứ đã không còn nữa. Anh ấy chiếm đoạt trọn số tiền của tài
khoản Trung tâm và ra đi mang theo mười bốn lớp học, để lại cho tôi nỗi cô đơn
và trơ trọi giữa sân trường.
Đêm hôm đó, tôi và nhà tôi
đến trường trong cái không khí tẻ ngắt vắng lạnh. Chỉ còn một lớp học từ bên
điạ điểm mới các em chạy về tìm tôi và chúng tôi lại bắt đầu với một nhóm học
viên mười hai em.
Chưa đầy sáu tháng sau,
Chúa ban cho Trung tâm có lại số học viên đông đúc ngoài mong đợi. Có lẽ trên
ba mươi lớp và một đội ngũ giáo viên hùng hậu, vững vàng chuyên môn, nên uy tín
của Trung tâm được nhiều người biết đến. Từ nguồn thu nhập chính đáng này,
chúng tôi bắt đầu mua thêm xe cộ, cải tạo lại nhà cửa và chuẩn bị cho một
chương trình to lớn hơn trong công việc phát triển ngành nghề mà mình yêu
thích.
“Chẳng có sự khôn ngoan
nào, sự thông mình nào, hay là mưu kế nào
“Mà chống địch Đức
Giê-hô-va được (Châm ngôn 21: 30).
“Kẻ ác chạy trốn dầu không
ai đuổi theo;
“Nhưng người công bình mãnh
dõng như một sư tử”
(Châm ngôn 28:1)
( Còn tiếp)